Hỏi Đáp

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ CHO NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 – Luật sư Đà Nẵng – Luật sư FDVN

Bảo đảm đối nhân là gì

BLDS 2015 (BLDS 2015) ghi nhận 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo hai phương thức: (1) Bảo đảm nghĩa vụ theo quy định của pháp luật [1] và Bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng [2]; (2) Bảo đảm nghĩa vụ phi tài sản [3] và bảo đảm nghĩa vụ tài sản [4]. Tuy nhiên, dù áp dụng theo phương thức nào thì một trong những vấn đề mà các chủ thể trong giao tiếp dân sự đặc biệt quan tâm là việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với người khác có được công nhận hay không? Nội dung pháp lý của câu hỏi này là gì? Bài viết muốn đề cập đến vấn đề này. [5]

1. Khái niệm và sự cần thiết

Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho người khác là việc bên thứ ba [6] thỏa thuận với chủ nợ (chủ nợ) hoặc chủ nợ và con nợ (con nợ) thực hiện biện pháp bảo đảm đối tác (bảo lãnh hoặc thế chấp [7]) hoặc thi hành các biện pháp Bảo đảm vật chất có tính chất – đối với tài sản (thế chấp, cầm cố [7] 8]) để bảo đảm cho con nợ thực hiện nghĩa vụ dân sự. Quan hệ bảo đảm nghĩa vụ này bao gồm ba chủ thể: bên bảo lãnh (chủ nợ) – bên bảo lãnh (bên thứ ba) – bên bảo lãnh (con nợ).

Trong số đó, mối quan hệ giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh là trung tâm và quyết định. Thỏa thuận giữa chủ nợ và bên thứ ba là điều kiện tiên quyết để hình thành quan hệ bảo đảm, và thỏa thuận với con nợ thường chỉ được xác lập khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Việc bên thứ ba bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của con nợ có thể là thỏa thuận giữa bên thứ ba và con nợ về việc bên thứ ba cung cấp dịch vụ để hỗ trợ con nợ có được khoản vay được chủ nợ chấp thuận, đổi lại con nợ phải trả phí dịch vụ. , trả công hoặc phải trả lại giá trị tài sản, bên thứ ba là người bảo đảm Giá trị nghĩa vụ đã thực hiện của chủ nợ. con nợ.

Việc ghi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho người khác chỉ là sự mở rộng một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở cam kết tự do, tự nguyện. và thỏa thuận. Điều này sẽ giúp các chủ thể có nhiều lựa chọn và cơ hội hơn trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung, đặc biệt là trong việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Đối với khách nợ, việc có bên thứ ba bảo đảm nghĩa vụ trả nợ sẽ giúp họ có được và mở rộng nguồn vốn cho đầu tư, sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng, đặc biệt nếu khả năng tài chính của họ không đủ hoặc không đủ để tạo niềm tin cho chủ nợ Trường hợp [9 ]

Đối với chủ nợ, khoản nợ của con nợ được bảo lãnh bởi bên thứ ba, điều này giúp chủ nợ có thêm cơ sở kinh tế, nguồn lực tài chính và bảo đảm pháp lý để cung cấp vốn và xác định mức vốn của con nợ. Nếu con nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, chủ nợ có thể tránh hoặc giảm thiểu rủi ro pháp lý. Điều này sẽ giúp các chủ nợ mở rộng kênh đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư của việc “bơm” vốn ra thị trường và xã hội.

Đối với bên thứ ba, ngoài việc bảo đảm cho con nợ thực hiện nghĩa vụ dân sự, hỗ trợ, tạo điều kiện để con nợ có được hoặc mở rộng vốn thì đây còn là một cách đầu tư và sử dụng vật tư để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoặc đại diện cho con nợ Tiền thu được từ tài sản thực hiện nghĩa vụ.

Đối với xã hội, đảm bảo nghĩa vụ dân sự cho người khác có thể giúp tăng vốn đầu tư xã hội và tăng mối liên kết giữa thị trường vốn, thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ và thị trường lao động. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định của kinh tế – xã hội.

2. Đảm bảo [10]

Theo quy định của “BLDS 2015”, bảo lãnh là một loại biện pháp bảo đảm có tính chất đối ứng, trong đó bên thứ ba (bên bảo lãnh) hứa thực hiện nghĩa vụ đối với chủ nợ (bên bảo lãnh). (chủ nợ), chủ nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình trong thời hạn.

Phù hợp với tính chất đối ứng của bảo lãnh, “blds 2015” không cho phép bên bảo lãnh có quyền định đoạt tài sản của bên bảo lãnh để thanh toán nghĩa vụ của bên bảo lãnh khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ bảo lãnh. Trong trường hợp này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bảo lãnh chỉ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị các khoản nợ mà bên bảo lãnh vi phạm, bao gồm cả tiền lãi gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, tiền lãi quá hạn. Trường hợp bên bảo lãnh không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên bảo lãnh có quyền yêu cầu Toà án, tổ chức trọng tài (nếu có thoả thuận) buộc bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ nợ.

(1) Các bên có thể thoả thuận rằng trong trường hợp chủ nợ không thể thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh chỉ cần thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh; [11]

(2) Các bên có thể thoả thuận dùng tài sản bảo đảm (như cầm cố, thế chấp) để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

(3) Nghĩa vụ bảo hành có thể là nghĩa vụ trong tương lai. Trong trường hợp này, phạm vi bảo lãnh không bao gồm các nghĩa vụ phát sinh do người bảo lãnh qua đời hoặc pháp nhân của người bảo lãnh không còn tồn tại.

3. Sử dụng tài sản của bên thứ ba để bảo vệ việc thực hiện nghĩa vụ dân sự

a) Dựa trên luật pháp

blds 2015 không có quy định cụ thể về việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản của bên thứ ba, điều này làm dấy lên lo ngại các nhà lập pháp không có chính kiến ​​rõ ràng và có thể mang lại rủi ro pháp lý cho chủ thể, đặc biệt là cho bên bảo lãnh. [12]

Tuy nhiên, BLDS 2015 không hạn chế quyền của chủ thể trong việc lựa chọn bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của bên thứ ba; nhưng không hạn chế chủ thể của biện pháp bảo đảm phải là chủ nợ và con nợ, khoản nợ được bảo đảm phải được khoản nợ của bên nhận bảo đảm hoặc tài sản bảo đảm phải thuộc sở hữu của bên nhận bảo đảm.

Ngoài ra, BLĐ cung cấp cơ chế pháp lý hoàn chỉnh để công nhận, tôn trọng và bảo vệ các thỏa thuận bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản của bên thứ ba, bao gồm:

– Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở cam kết và đồng ý một cách tự do, tự nguyện; không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. có giá trị đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng; [13]

Xem Thêm : Tố giác tội phạm được hiểu như thế nào? Cơ quan có thẩm quyền có tiến hành khởi tố vụ án ngay khi nhận được tố giác tội phạm hay không?

– Các quyền của công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội hoặc sức khỏe của nhân dân; [14]

-Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, không được vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, không được lợi dụng quyền dân sự để xâm hại người khác, vi phạm nghĩa vụ hoặc thực hiện các mục đích trái pháp luật khác; [15]

– Không ai bị hạn chế hoặc tước đoạt trái pháp luật các quyền tài sản hoặc các quyền tài sản khác khi thực sự cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, trong trường hợp khẩn cấp, phòng chống thiên tai, trưng thu nhà nước, v.v. Hoặc bồi thường việc trưng thu tài sản của tổ chức và cá nhân theo giá thị trường. [16]

– Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì không có luật hiện hành. Trong trường hợp này phải căn cứ vào sự thoả thuận của các bên, nếu các bên chưa thoả thuận được thì phải căn cứ vào luật tục và luật tương tự, nếu không có luật tục hoặc luật tương tự thì phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự và giải quyết công bằng; [17]

Do đó, có thể xác định rằng nếu các bên thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản của bên thứ ba mà không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội thì thỏa thuận đó có giá trị pháp lý đối với các bên. Và phải được các chủ thể khác tôn trọng. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác có nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ quyền này của chủ thể. [18] – [19]

b) Các định dạng có thể có

Hình thức đầu tiên, Sử dụng tài sản của bên thứ ba để đảm bảo hiệu quả hoạt động của con nợ

Trong hình thức này (thường áp dụng thế chấp, thế chấp [20]), chủ nợ là người bảo lãnh, bên thứ ba là người bảo lãnh, và khoản nợ được bảo đảm là một phần hoặc toàn bộ. Tập hợp các khoản nợ của con nợ (tuỳ theo thoả thuận hoặc quy định của pháp luật). Nếu con nợ không vỡ nợ trong phạm vi được bảo lãnh [21] thì chủ nợ có quyền xử lý tài sản bảo đảm do bên thứ ba dùng để bảo đảm cho khoản nợ.

Ví dụ, x vay tiền của y và m thỏa thuận với y để sử dụng tài sản của mình làm tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của x. Trong trường hợp này, sẽ có ba mối quan hệ, mối quan hệ x-y (theo định nghĩa của mối quan hệ quyền chủ nợ), mối quan hệ m-y (theo phương thức thế chấp) và mối quan hệ x-m (mối quan hệ giữa các bên. Có hoặc không có bồi thường ). Khi x vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho y, y có quyền định đoạt tài sản thế chấp mà m đã dùng để bảo đảm việc trả nợ của x. Theo thỏa thuận hoặc pháp luật, x phải trả lại giá trị tài sản định đoạt của m để trả nợ cho x, có thể bao gồm cả phí dịch vụ và thù lao.

Hình thức thứ hai, người bảo lãnh dùng chính tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ bảo đảm của chính mình

Hình thức này về cơ bản giống với hình thức thứ nhất, nhưng điểm khác cơ bản là nghĩa vụ bảo lãnh không phải là nghĩa vụ của bên mắc nợ mà là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh. Vì vậy, khác với hình thức thứ nhất, trong hình thức này, nếu con nợ vi phạm nghĩa vụ trong phạm vi được bảo lãnh [22] thì trước hết chủ nợ phải yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho con nợ. nghĩa vụ của mình thì chủ nợ mới có quyền xử lý tài sản do người thứ ba dùng để bảo đảm nghĩa vụ.

Ví dụ: a bảo đảm số tiền mà b cho c vay và theo thỏa thuận với c, a dùng tài sản của mình làm tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trong trường hợp này sẽ phát sinh ba mối quan hệ là quan hệ b-c-a (theo quy định của biện pháp bảo đảm), quan hệ a-c (theo quy định của biện pháp thế chấp), quan hệ a-b (quan hệ có bồi thường hoặc không có bồi thường). Khi b vi phạm nghĩa vụ hoàn trả đối với c thì c không có quyền định đoạt tài sản thế chấp mà phải yêu cầu a thực hiện nghĩa vụ hoàn trả thay cho b. Nếu vi phạm nghĩa vụ bảo lãnh thì c có quyền định đoạt tài sản đã quy định trong thỏa thuận tài sản thế chấp hoặc quy định của pháp luật. Nếu có thoả thuận hoặc pháp luật, b phải trả lại giá trị tài sản do A xử lý để trả nợ cho b, đồng thời có thể bao gồm cả phí dịch vụ, thù lao. ..

Sử dụng Bảo đảm bằng Tài sản Nghĩa vụ của người bảo lãnh cũng có thể là sử dụng tài sản của người khác. Ví dụ: m bảo lãnh khoản vay của p đối với n, và theo thỏa thuận với p, y dùng tài sản của mình làm tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của m đối với n. Trong trường hợp này, sẽ có bốn quan hệ, quan hệ n – p – m (theo quy định của biện pháp bảo đảm), quan hệ p – y (theo quy định của biện pháp thế chấp), quan hệ n – m (quan hệ có bù hoặc không được bù) và y – Mối quan hệ m (được bù đắp hoặc không được bù đắp). Khi n vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì p không có quyền xử lý tài sản thế chấp mà phải yêu cầu m thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho n và nếu m vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì p có quyền xử lý tài sản thế chấp. của tài sản thế chấp y được sử dụng để đảm bảo p. Nếu có thoả thuận hoặc pháp luật thì n, m phải trả lại cho con nợ (m là n, y là m) giá trị tài sản của khoản nợ đã trả hết. Việc bổ sung n và m cũng có thể bao gồm phí dịch vụ và thù lao.

c) Nghĩa vụ bảo đảm người đại diện bằng tài sản của người đại diện

Theo blds, một cá nhân hoặc pháp nhân có thể đại diện cho một số cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau, nhưng không được xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh người đại diện với chính mình hoặc với bên thứ ba mà người đó cũng thuộc [23 ] Từ quy định này, Nên bảo đảm rằng nghĩa vụ của bên được đại diện không tuân theo quy định của luật này trong trường hợp bên được đại diện sử dụng tài sản của mình. Blaise. Tuy nhiên, trừ trường hợp “pháp luật có quy định khác”, BLDS tuyệt đối không phủ nhận việc xác lập quyền đại diện của người được người đại diện xác lập trong các giao dịch dân sự với mình hoặc với người thứ ba cũng là người với mình. Điều này được thể hiện rõ qua các quy định tại Điều 6 (1), 86 (1) và 162 (1) của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Vì vậy, trừ trường hợp điều khoản liên kết có quy định khác, người đại diện của doanh nghiệp phải được đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và hội đồng quản trị chấp thuận và doanh nghiệp có thể đảm bảo rằng doanh nghiệp mình đại diện sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình. [24] – [25]

Trong các trường hợp khác, việc sử dụng tài sản của người đại diện để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người đại diện phải phù hợp với các nguyên tắc hợp đồng vì lợi ích của bên thứ ba. Tức là bên giao gốc chỉ là người thụ hưởng quyền lợi khi thực hiện nghĩa vụ, quan hệ giữa bên bảo lãnh và người được bảo lãnh phải là quan hệ tự do, bên bảo lãnh không cần thực hiện nghĩa vụ gì đối với bên bảo lãnh. Nếu bên bảo lãnh có nghĩa vụ với bên bảo lãnh, tức là giao dịch giữa bên đại diện và bên giao đại diện không tuân theo quy định của BLDS về giới hạn phạm vi đại diện. Để tránh phức tạp và những rủi ro pháp lý không đáng có, tác giả cho rằng các bên cần phân biệt rõ mối quan hệ, ví dụ như ở hình thức thứ nhất (đã phân tích trong bài viết này), hợp đồng bảo lãnh chỉ nên được ký giữa các bên bảo lãnh hoặc các văn bản khác. các cam kết. Các bên (chủ nợ) và người bảo lãnh (đại diện).

Tiêu đề:

[1] Giữ lại

[2] Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, ký quỹ, giữ quyền sở hữu, bảo lãnh và cam kết

[3] Đảm bảo và tín dụng

[4] Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, đặt cọc, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu và tiền ký quỹ

[5] Bài viết này chỉ giới thiệu tinh thần của BLDS 2015 về việc bảo đảm người khác thực hiện nghĩa vụ dân sự của họ, và nhiều tác giả đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề này (ts.bui duc giang, truong thanh duc, pgs.ts .do van dai, msc. nguyen quang huong tra, dr. arc huy, ..) đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, các bạn có thể tham khảo các ấn phẩm. nghiên cứu của họ.

Xem Thêm : Thể tích là gì? Đơn vị đo và Công thức tính thể tích

[6] Một hoặc nhiều cá nhân hoặc pháp nhân

[7] Bài viết này không đề cập đến nội dung pháp lý của các biện pháp thế chấp

[8] Ngoài cầm cố, thế chấp và các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trong HĐMB 2015 còn có các khoản đặt cọc, nhận giữ, giữ hộ và thế chấp (bảo đảm pháp lý).

[9] Thời gian qua đã chỉ ra rằng các cơ chế đảm bảo nghĩa vụ của người khác thực sự có ý nghĩa đối với người dân, các công ty khởi nghiệp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có được nguồn vốn phù hợp cho các nhu cầu về nhà ở, nghiên cứu và đầu tư. , đầu tư, sản xuất, vận hành …

[10] Địa chỉ 335 – 343

[11] Quy định này được kế thừa từ quy định của thế giới năm 2005

[12] Mối quan tâm này là chính đáng bởi vì, trên thực tế, có những tòa án đã tuyên bố một hợp đồng bao gồm việc sử dụng các quyền để đảm bảo rằng nghĩa vụ của người khác là vô hiệu, vì luật không quy định về trường hợp như vậy hehe .

[13] Điều khoản 3.2

[14] d.2.2

[15] Phần 9.1 và 10.1

[16] d.163

[17] Điều 5, 6, 6, 14.2

[18] Điều 2 Điều 3, Điều 1 Điều 14

[19] Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất của nhận thức pháp luật, chính phủ cũng cần có hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng và thực thi pháp luật; Tòa án nhân dân tối cao cũng cần hướng dẫn hoặc ban hành các tiền lệ liên quan để đảm bảo rằng bảo lãnh cho người khác được xử lý. Các luật chuyên ngành (đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, tín dụng, chứng khoán…) cũng yêu cầu quy định cụ thể hơn để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự về tài sản của bên thứ ba.

[20] Về lý thuyết, các bên có thể đồng ý áp dụng các biện pháp bảo đảm bổ sung đối với các tài sản khác.

[21] Nội dung về việc con nợ không thực hiện đúng thời hạn, không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ.

[22] Xem chú thích 21

[23] Điều 141.3

[24] Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, việc đảm bảo nghĩa vụ trong trường hợp này cũng có thể được chấp nhận sau khi chủ tịch, giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty xem xét (Điều 86 Luật Công ty).

[25] Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, trong các trường hợp khác, bên đại diện còn có thể bảo đảm cho bên đại diện thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 59 Bộ luật dân sự thì người được giám hộ có quyền thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ; giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ liên quan đến tài sản của người được giám hộ vô hiệu, trừ trường hợp được một giao dịch vì lợi ích của người được giám hộ.

Ruan Hong Hai

Nguồn: Diễn đàn Pháp luật và Luật pháp Việt Nam Vol. Ngày 23-276 tháng 8 năm 2017

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button