Hỏi Đáp

Top 5 bài thuyết minh về chùa Thiên Mụ siêu hay – Hoatieu.vn

Giới thiệu về chùa thiên mụ

Chùa Thiên Mụ là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Huế, mang vẻ đẹp kiến ​​trúc của các triều đại xưa. Có thể nói, cùng với thời gian, chùa Thiên Mụ đã trở thành biểu tượng tâm linh của thành phố Huế. Trong bài viết này, hoatieu mời các em tham khảo bài văn thuyết minh về chùa Tiên Mụ chi tiết và hay, giúp các em hình thành ý tưởng khi giới thiệu về chùa Tiên Mụ.

  • Thuyết minh về chùa tam chúc
  • 1. Sơ lược về chùa Thiên Mục

    Tôi. Mở bài đăng

    Giới thiệu:

    – Chùa Thiên Mụ là một trong những ngôi chùa nổi tiếng ở Huế.

    – là ngôi chùa cổ nhất ở Huế.

    Hai. Nội dung bài đăng

    1. Nguồn gốc, xuất xứ

    – Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây.

    <3

    – Có thể nói Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất ở Huế.

    2. kết cấu

    – Trong và ngoài chùa đều có khuôn tường bằng đá bao quanh.

    – Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực. Khu vực trước nghi môn gồm các công trình xây dựng: cầu tàu bê tông 24 bậc, tam quan cống tứ trụ, gần đường chính. nhà công vụ hương vương (chỉ còn lại nền trệt và đá móng), phía sau nhà nguyện là đài nguyện bằng gạch, cao bảy tầng, mỗi bên có hai tòa vuông (xây dựng từ thời nhà thờ), và hai lầu vuông. mặt sau lầu lục giác – Một để bia, một để đồng hồ (xây thời nguyễn phúc chu).

    – Đây là những công trình hoành tráng (tượng đài, tháp).

    – Khu vực bên trong của buổi lễ bao gồm chính điện: Dahong, Keats, Guanyin, tân lang, tòa nhà đón khách, bồn hoa và cuối cùng là khu vườn tùng tĩnh mịch.

    3. Ý nghĩa

    – Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, công trình nguy nga nhất Huế và là ngôi chùa đẹp nhất Huế.

    Xem Thêm : 6 cách xử lý nhanh lỗi Unikey không gõ được tiếng Việt

    – Nhà vua giới thiệu cảnh chùa Thiên Mục là một trong 20 thắng cảnh được thể hiện trong bài thơ Thiên Mục Chuông Thành.

    – Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chul mở Đại Pháp đường, làm lễ trọng thể, mời ngài Đại Thiện – một danh tăng Trung Hoa, đến thuyết pháp.

    Ba. kết thúc

    – Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa cổ và đẹp ở Việt Nam.

    – Chúng ta cần nâng niu và gìn giữ nó mãi mãi.

    2. Giới thiệu về chùa Thiên Mục

    Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây. Chùa chính Thiên Mụ được xây dựng vào năm Tân Sửu (1601) dưới thời Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên của Đàng Trong. Có thể nói Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất ở Huế.

    Vào thời điểm đó, nó chỉ là một ngôi đền nhỏ được xây dựng bởi những người mới di cư đến khu vực này. Theo “Da Nan Yi Tong Zhi”, vào năm 1601 sau Công nguyên, Ruan Huangjun đã đến đây để thưởng thức cảnh đẹp và người dân địa phương nói với ông rằng: một nàng tiên mặc váy đỏ xuất hiện trên ngọn núi này và nói rằng một vị vua thực sự sẽ đến lập chùa để tụ linh khí, Trường thọ cho con đường Rồng. Nói xong, nàng tiên biến mất. Trong dân gian gọi là núi Thiên Mục (Thiên Nữ). Thượng đế liền cho dựng nó trên một ngọn núi và đặt tên là linh mục. Các chúa sau này như Nguyễn Phúc Tấn (1648 – 1687) và Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) cũng tu bổ, mở rộng tháp thành một ngôi tháp lớn. Năm 1844, nhà vua ra lệnh xây dựng Tháp Phước lành.

    Năm thứ nhất (1904) ở Huế có bão lớn, chùa bị thiêu hủy. Năm 1907, Thanh Đài được xây dựng lại, và quy mô của ngôi chùa không còn lớn như lúc đó, nhưng nó vẫn đơn giản và trang nghiêm.

    Ngôi đền được bao quanh bởi các đường gờ tường bằng đá bên trong và bên ngoài. Khuôn viên chùa được chia thành hai khu vực. Khu vực phía trước nghi môn bao gồm các công trình xây dựng: bến thuyền bằng bê tông có 24 bậc lên xuống, ba cổng là tứ trụ xây cạnh chánh đường, từ cổng tam quan lên 15 bậc. Nhà công vụ Hương vương (nay chỉ còn nền và móng bằng đá), sau nhà công vụ là tòa Phúc viên bằng gạch, cao 7 tầng, lầu 1 hình lục giác – lầu 1 có bia, lầu 1 có chuông (xây trong thời Ruan Fuzhu). Nội thất của buổi lễ bao gồm chính điện: Dahong, Keats, Guanyin, nhà trai, nhà khách, vườn hoa và cuối cùng là vườn thông yên tĩnh.

    Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất ở Huế, công trình nguy nga nhất, và là công trình ngầm đẹp nhất ở Huế. Kim đã giới thiệu ngôi chùa Thiên Mục với một trong 21 cảnh quan được thể hiện trong bài thơ Thiên Mục Trung Thanh. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chul tổ chức đại lễ sắc phong tại chùa và cung thỉnh Ngài Đại Thiện – một nhà sư lỗi lạc của Trung Quốc về thuyết pháp.

    Chùa Thiên Mục ngày nay vẫn còn nguy nga tráng lệ là nhờ công đức trùng tu, xây dựng của biết bao chư Tăng và bạn bè gần xa trong hàng chục năm qua.

    Thuyết minh về chùa Thiên Mụ

    3. Thuyết Minh Chi Tiết Về Chùa Thiên Mục

    Kinh đô Huế là nơi tập trung nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và có nhiều ngôi chùa cổ kính nổi tiếng của Việt Nam. Nhưng ngôi chùa cổ nhất có lẽ là chùa Thiên Mụ – ngôi chùa ra đời gắn với bước chân mở cõi của vị chúa Nguyễn đầu tiên vào Nam Kỳ.

    Tương truyền, khi Nguyễn Hoàng làm Tổng trấn Huế, ông đã đích thân đến đây khảo sát địa thế để chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, dựng núi sông của họ Nguyễn đời sau. Khi phi ngựa ngược dòng sông Hương, bạn sẽ bắt gặp những ngọn đồi nhỏ với làn sóng xanh gợn lăn tăn, thế đất nhìn lại như một con rồng. Tôi mới biết rằng ngọn núi này được gọi là núi Haxi. Người dân địa phương kể rằng vào ban đêm, một bà lão mặc áo đỏ quần xanh xuất hiện trên núi và nói với mọi người: “Thánh Allah sẽ đến xây dựng một ngôi đền, thu thập linh khí, khai thông kinh mạch rồng, cho một quốc gia phương nam hùng mạnh”. Vì vậy, nơi đây còn được gọi là Thiên mu sơn. Những ý tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như phù hợp với ý nguyện của nhân dân. Ông cho xây một ngôi chùa trên ngọn đồi hướng ra sông Hương và đặt tên là “thiên mụ tự”.

    Thực ra, nơi đây xưa kia có miếu ông đồ – di tích được nhắc đến trong sách “Ô châu tạp lục” của Đường Văn An năm 1553. Nhưng phải đến năm 1601, theo quyết định của Hoàng đế Nguyễn Chu, ngôi chùa mới chính thức được hoàn thành.

    Khi Phật giáo ở Đàng Trong phát triển và hưng thịnh, chùa được xây dựng lại với quy mô lớn hơn vào thời chúa Nguyễn Phúc Chul (1691-1725). Năm 1710, Chúa sai đúc một quả chuông lớn có khắc chữ. Năm 1714, Allah đã trùng tu ngôi chùa và xây dựng hàng chục công trình quy mô lớn như Cung điện Tianwang, Cung điện Daxiong, Giảng đường, Thư viện Kinh điển, Phòng của Nhà sư và Phòng Thiền, một số không còn tồn tại. Ông cũng đích thân viết bài văn bia cho việc khởi công công trình xây dựng tại đây, ca ngợi triết lý của đạo Phật và thuật lại rõ ràng câu chuyện nhà sư Thạch Liêm có công giúp chúa Nguyễn chấn hưng công đức to lớn của nhà Phật ở Đàng Trong. Bia được phục vụ trên lưng của một con rùa đá rất lớn và trang trí đơn giản nhưng đẹp mắt.

    Với sự mở rộng về quy mô và vẻ đẹp tự nhiên, từ đó chùa Thiên Mục trở thành ngôi chùa đẹp nhất Nam Kỳ. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ được sử dụng làm thổ địa dưới thời Tây Sơn (khoảng năm 1788) và được tu sửa, xây dựng lại nhiều lần dưới thời các vua chúa Nguyễn. Vua Chiêu Chi cho xây lại chùa vào năm 1844 nhân dịp mừng thọ “tám mươi tuổi” của Cao Thái hậu Thuận Thiên (vợ vua Gia Long và là bà nội của vua Chiêu Chi). Quy mô lớn hơn: xây thêm lầu Từ Bi (sau đổi là lầu Phúc), thắp hương và chúc sảnh, dựng 2 bia kỷ niệm các bài thơ của vua.

    Chùa Phước lành là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mục. Tòa tháp phía trước cao 21 mét, có bảy tầng. Mỗi tầng chùa có một tượng Phật. Bên trong, một cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi từng thờ một bức tượng Phật bằng vàng. Trước tháp là hương đường.

    Xem Thêm : Mã Bưu Điện (Zip Code) Việt Nam – Tra Mã Bưu Chính Mới Nhất 2022

    Chùa Thiên Mụ được xếp vào danh sách hai mươi thắng cảnh của Thần Kinh Quốc, bài thơ “Thiên Mụ chung thanh” do đích thân nhà vua viết được ghi trên tấm bia đá dựng gần cổng chùa. Năm 1862, khi Đức vua lên ngôi, để tìm người thừa kế, sợ chữ “Thiên” xúc phạm đến Thần nên đã đổi “Thiên mục” thành “mẹ” (thánh nữ hộ sinh). ) Mãi đến năm 1869, nhà vua mới cho phép dùng lại tên Thiên mụ như cũ. Vì vậy, trong dân gian, người ta vẫn dùng hai tên này cho ngôi chùa này.

    Một cơn bão khủng khiếp vào năm 1904 đã làm hư hại nghiêm trọng ngôi chùa. Nhiều tòa nhà bị hư hại, trong số đó có nhà tuyên thệ bị sập hoàn toàn. Trải qua nhiều lần tu sửa lớn nhỏ, ngoài các công trình kiến ​​trúc như chùa Cầu nguyện, điện Daxiong, chùa Diyazang, chùa Quan’an, còn có các bia đá, chuông đồng… Chùa Thiên Mục ngày nay còn lưu giữ nhiều di vật văn hóa quý giá. mà còn trong nghệ thuật. Những tượng hộ pháp, tượng mười vị vua, tượng Phật Di Lặc, tượng Phật tam thế… hay những bức hoành phi, câu đối nơi đây đều ghi dấu một thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mục.

    Trong thiền viện có một vườn hoa được chăm sóc và vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của Tổ sư Đạo Đàn Việt Nam — di vật do cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi chế độ Ngô Đình Diệm tự thiêu năm 1963 để phản đối đàn áp Phật giáo — được đặt gần xe. .Cuối vườn là nghĩa trang của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, một vị trụ trì chùa Thiên Mụ nổi tiếng, người đã dành cả cuộc đời mình cho các hoạt động từ thiện giúp người. ..

    Nằm bên bờ sông Hương thơ mộng của miền Trung, chùa Thiên Mục với lối kiến ​​trúc cổ kính càng làm cho khung cảnh thiên nhiên nơi đây thêm hữu tình, thơ mộng. Tiếng chuông chùa như linh hồn của xứ Huế, luôn ngân vang trên dòng sông Hương trước cửa thành, vang vọng đến tận Hải Khẩu, để lại bao cảm xúc lưu luyến cho du khách phương xa.

    4. Thuyết minh về vẻ đẹp của chùa Thiên Mục

    Khi đến với thành phố Huế thơ mộng, bạn có thể phóng tầm mắt bao quát vẻ đẹp của vùng đất được tạo hóa ban tặng này. Trong số đó, chùa Thiên Mục được mệnh danh là “đệ nhất cổ tự” ở chốn cổ kính này.

    Chùa Thiên Mụ được xây dựng vào ngày Tân Dậu (1601) dưới triều Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên của Đàng Trong. Chùa Thiên Mụ tọa lạc trên núi Hạ Tây, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm Huế khoảng 5 km về phía Tây, là một ngôi chùa tâm linh nổi tiếng ở Huế. Sau này, chùa còn được tu bổ, sửa chữa nhiều lần dưới thời các vua Nguyễn. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, chùa Thiên Mụ được công nhận là một trong những di tích của cố đô Huế, và được công nhận là di sản văn hóa thế giới.

    Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Thừa Thiên Huế (và cả ở nước tôi), chùa Thiên Mụ. Vua Thiệu Trị (1841-1847) đã xếp chùa Thiên Mụ đứng thứ 14 trong số 20 thắng cảnh đẹp ở cố đô Huế.

    Trước chùa là khúc quanh rất hữu tình của sông Tương Giang. Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực, khu vực trước cổng bao gồm các công trình xây dựng như: bến thuyền bằng bê tông có 24 bậc lên xuống, cổng chùa là bốn cây cột cọ sát vào trục đường chính. Bậc thang thứ 15 của cổng tam quan là nhà công vụ Tương Nguyên, phía sau nhà công cộng là tòa nhà Qifu bằng gạch cao 7 tầng. .Một lớp lục giác là bia, lớp còn lại là chuông. Tất cả những điều đó tạo nên một vẻ đẹp rất riêng của Thiên Mụ, là điểm tham quan không thể bỏ qua của mỗi du khách khi đến Huế.

    Ngắm tháp, du khách như lạc vào không gian và thời gian hàng thế kỷ, trong lành và thơ mộng. Du khách bước qua cổng chùa thấy trong lòng thanh thản, buông bỏ muộn phiền ưu tư, sống cuộc đời thật bình lặng thanh thản… Trong khuôn khổ chùa Thiên Mục có một chút thơ và một chút. giấc mơ của màu sắc ở khắp mọi nơi. Mỗi công trình dù được xây dựng vào triều đại nào đều thể hiện sự tín ngưỡng, trang trọng và hài hòa với các công trình của các bậc tiền nhân. Kiến trúc và thiên nhiên hòa quyện như những lớp thơ. Bốn thế kỷ qua, chùa Thiên Mụ đã làm say đắm, đắm say lòng người dân xứ Huế và du khách thập phương với tiếng chuông chiều, âm vang, khói thơm từ những thanh vắng. Khung cảnh bình minh và hoàng hôn tuyệt vời hay làn gió mát trong đêm trăng tượng trưng cho vẻ đẹp dịu dàng và thơ mộng của xứ Huế. Tiếng chuông chùa đã đi vào những làn điệu dân ca, hò vè để lại trong lòng người dân xứ Huế và bà con, bạn bè gần xa.

    Đại Hùng Điện là sảnh chính trong chùa, tòa nhà có hình con ốc sên. Năm 1959, ngôi đền được xây dựng lại, vì kèo, lăng và đế đều bằng bê tông và phủ một lớp sơn giả gỗ. Trong thánh địa Phật Di Lặc. Đức Phật dùng đôi tai lớn lắng nghe nỗi khổ của thế gian, cái bụng bự của Ngài nhận lấy nỗi khổ của thế gian, và cái miệng lớn của Ngài cười nhạo những khó khăn của thế gian. Sau khi đi qua nơi tôn trí xá lợi, ở giữa có ba vị Phật, hai bên là Bồ tát và Phổ Hiền. Đi dọc một bên sảnh ra sau vườn là phòng trưng bày và chiếc xe hơi của hòa thượng Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu năm 1963 để phản đối chế độ đàn áp Phật giáo.

    Chùa Phước lành là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mục. Đây còn được gọi là số phận của tòa tháp. Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21m) bên dưới có các gian lớn nhỏ. 7 là con số tâm linh trong Phật giáo. Hệ thống bậc thang trước chùa cũng được tính theo số 7. Trong tháp có hệ thống thang từ dưới lên, trừ tầng 6 và tầng 7 phải sử dụng thang nhẹ bằng gỗ và cửa có chìa khóa. Một ổ khóa đặc biệt, vì trên tầng cao nhất này từng có tượng Phật bằng vàng.

    Chùa Thiên Mụ đã chứng kiến ​​lịch sử bên bờ sông Hương. Ngôi chùa này vẫn tồn tại cho đến ngày nay trong tâm thức của người dân xứ Huế, đặc biệt là trong đời sống văn hóa của Việt Nam nói chung.

    5. Đôi nét về chùa Thiên Mục

    Nét đẹp văn hóa tâm linh là một trong những nét đặc trưng của đời sống tâm linh người Việt, không thể thiếu trong các hoạt động thắp hương, cầu phúc, lễ Phật ở những ngôi chùa, miếu linh thiêng. Một trong những ngôi chùa nổi tiếng và linh thiêng nhất là chùa Thiên Mục.

    Chùa Thiên Mục là một ngôi chùa cổ tọa lạc trên núi Haxi, tả ngạn sông Hương cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía Tây, được xây dựng vào năm Tân Sửu (1601) sau Công Nguyên, đời chúa Nguyễn thứ nhất. Hoàng – vị chúa Nguyễn đầu tiên của Đàng Trong . Sở dĩ có tên là thiên mu vì khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Tổng đốc Thuận Hóa kiêm Tổng đốc Quảng Nam, thấy thế núi mà mưu tính kế lớn, thấy ngọn đồi nhỏ nhô lên uốn lượn xanh biếc. sóng Bên cạnh, trái đất trông giống như một con rồng. Theo dân gian, một bà lão mặc áo sơ mi đỏ và quần xanh ngồi trên núi vào ban đêm và nói rằng một vị vua chân chính đã đến xây dựng một ngôi đền để thu thập năng lượng và tăng cường long mạch, Ruan Jun đã cho người xây dựng một ngôi đền tên là Tianmu Chùa, và một ngọn đồi nữa được người dân đặt tên là Mẫu Thượng Ngàn.

    Có thể nói, ngôi chùa này là sự tập hợp những nét đẹp trong kiến ​​trúc của các triều đại trước, được vua chúa sủng ái. Vào thời Đức Phật trị vì, vào lúc Phật giáo Việt Nam cực kỳ phát triển và thịnh vượng, chùa được xây dựng lại với quy mô lớn. Năm 1710, trong chùa theo lệnh vua cho đúc một quả chuông lớn nặng hơn hai tấn, đặt tên là Đại hồng chung, trên có khắc bài minh. Năm 1714, quốc vương cho trùng tu chùa và xây dựng hàng chục công trình kiến ​​trúc quy mô lớn như điện Thiên vương, điện Đại Hùng, Giảng đường, Kinh thư, Tăng phòng, Thiền phòng. Một số trong số họ không còn có sẵn ngày hôm nay. Chính Chúa đã viết một bài văn, khắc trên tấm bia đá lớn (cao 2 thước 60, rộng 1 thước 2) nói về việc xây dựng các công trình xây dựng tại đây, để người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật và Kinh điển, đề cao triết lý nhà Phật, kể rõ câu chuyện về hòa thượng Thạch Liêm – người có công lớn giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được phục vụ trên lưng của một con rùa đá rất lớn và trang trí đơn giản nhưng đẹp mắt. Trải qua bao thăng trầm, nó được dùng làm đàn tế trời vào thời Tây Sơn (khoảng 1788), và được tu sửa, xây dựng lại nhiều lần vào thời nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân lễ “bát long” của Hoàng hậu Thuận Thiên Cao (vợ vua Gia Long, bà ngoại vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị cho xây dựng lại ngôi đền với quy mô lớn hơn: một ngôi đền khác. Tháp hình bát giác gọi là tứ nhan (sau đổi là phước duyên), nhà công của hương án, dựng 2 tấm bia ghi việc xây tháp, nhà công và các bài thơ của vua. Trong số đó, phải kể đến chùa Phước Duyên – biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, có 7 tầng, được xây dựng phía trước tháp vào năm 1844. Mỗi tầng tháp thờ một tượng Phật. Bên trong, một cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi từng thờ một bức tượng Phật bằng vàng. Trước chùa là hương đường, trên nóc là Pháp luân. Tuy nhiên, sau một cơn bão vào năm 1904, các tòa tháp đã bị hư hại nghiêm trọng và nhiều tòa nhà bị bỏ dở, chẳng hạn như Nhà Lời thề, đã bị sụp đổ hoàn toàn. Mặc dù được xây dựng lại vào năm 1907 nhưng tháp không còn lớn như lúc đó. Trong chùa có một vườn hoa được chăm sóc và vun trồng hàng ngày. Tại đây, gần xe có đặt non bộ của Tổ sư Đạo Thông – di vật do cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo. Chế độ Công giáo Diệm của Ngô Đình năm 1963. Cuối khu vườn là lăng mộ của cố hòa thượng Shi Tunhao, một vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời cho các hoạt động từ thiện để giúp đỡ cuộc sống của mình.

    Tháp Thiên Mục không chỉ có vẻ đẹp kiến ​​trúc mà còn có giá trị độc đáo. Có thể nói, chùa là chứng nhân của lịch sử, bởi nơi đây đã chứng kiến ​​sự thay đổi của các triều đại từ thời Chúa Nguyễn đến Nội chiến Đàng Trong, từ Kinh đô sang nhà Nguyễn. Chùa còn có giá trị văn hóa tâm linh lâu bền với nhiều đền chùa gần 300 năm tuổi. Không chỉ vậy, hàng năm tháp đón những làn sóng du khách đến tham quan, chiêm bái, thắp hương cầu phúc, mang lại giá trị du lịch vô cùng cao. Chùa Thiên Mụ được xếp vào danh sách 20 danh thắng của Thần Kinh Quốc, bài thơ Thiên Mụ chung thanh do chính nhà vua viết được ghi trên tấm bia dựng gần cổng chùa.

    Vì vậy, với những giá trị đó, chùa thiên mụ là niềm tự hào của người dân xứ Huế, đặc biệt là người dân Việt Nam, phát huy nền văn hóa tâm linh của nước ta từ gần 3 thế kỷ trước cho đến nay. Cùng với bạn bè quốc tế cần bảo vệ và giữ gìn vẻ đẹp của thế hệ hôm nay và mai sau.

    Vui lòng tham khảo thêm phần tài liệu của hoatieu.vn để biết thêm thông tin hữu ích.

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button