Hỏi Đáp

TOP 23 bài Phân tích Hai đứa trẻ hay nhất (Sơ đồ tư duy)

Hai dua tre

Video Hai dua tre

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam Tuyển chọn 23 bài văn mẫu cực hay kèm theo gợi ý làm văn chi tiết nhất. Thông qua sự phân tích của hai đứa trẻ, cuộc sống của những người lao động ở những vùng nghèo khó dần hiện ra trong đôi mắt ngây thơ của Lian En.

Bài viết

23 lần đi ị đầu tiên của hai đứa trẻ dưới đây giúp thầy cô giáo và các em học sinh lớp 11 ôn tập, củng cố kiến ​​thức, kỹ năng đã học trên lớp. Đồng thời, Phân tích hai em sẽ là người bạn đồng hành, hỗ trợ các em nâng cao vốn văn học, hoàn thiện bài soạn trong quá trình ôn tập, đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, bài thi học kỳ I. Ngoài ra, các bạn có thể xem thêm: Phân Tích Nhân Vật, Hé lộ Hai đứa trẻ.

Phân tích dàn ý về hai đứa trẻ

I. Giới thiệu:

  • Một chút về thạch nhũ: một trong những cây bút tiêu biểu của dòng văn tự lực, giỏi viết truyện ngắn. Văn chương chữ nghĩa rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn
  • Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình buồn phù hợp với những điều trên
  • Hai. Văn bản:

    1. Bản đồ thị trấn lúc hoàng hôn

    Một. Bản đồ tự nhiên của thị trấn lúc hoàng hôn:

    • Toàn cảnh được cảm nhận bằng mắt
    • Âm thanh: + Chiều thu tiếng trống im bặt, ếch nhái hót ngoài đồng, muỗi vo ve.
    • Hình ảnh, màu sắc: + “Phía tây đỏ như lửa”, “Mây hồng như hòn than tàn”.
    • Dòng: Hàng tre làng cắt rõ giữa trời.
    • Tốc độ chậm, hình ảnh phong phú và âm nhạc
    • ⇒ Tuy khung cảnh thiên nhiên đượm buồn nhưng cũng thấy được những tình cảm mong manh

      b. Cảnh tan chợ và cuộc sống của người dân phố huyện

      – Cảnh cuối chợ:

      • Chợ đã đóng cửa từ lâu, mọi người đã về, sự xô bồ cũng qua đi.
      • Chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía.
      • – Con người:

        • Những đứa trẻ nghèo săn lùng và nhặt nhạnh những gì còn sót lại ở chợ.
        • Hai mẹ con: Trong một cửa hàng đơn sơ, vắng vẻ.
        • Bà Thi: Có chút điên, buổi tối mua rượu, tối đi vào.
        • Chú siêu phở – món quà xa xỉ.
        • xam Gia đình chú mù sống nhờ tiếng đàn và lòng tốt của khách qua đường.
        • ⇒ Bức màn buông xuống thành phố, khung cảnh sinh tử: diệt vong, đói nghèo, hoang tàn của một thị trấn nhỏ vùng nghèo.

          c. Tâm lý

          – Cảm nhận rất rõ: “Mùi riêng của đất này, quê hương này”.

          – Nỗi đau xót xa khi sắp chết, sắp chết:

          • Thương trẻ em nghèo nhưng không có tiền cho.
          • Tội nghiệp hai mẹ con: Hôm đó mò cua bắt tôm, tối thu dọn quán chè tươi cũng không được bao nhiêu, tội nghiệp bà điên
          • ⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Đây cũng là vai diễn tâm huyết của Thạch Lâm

            2. Cảnh đêm thị trấn

            Một. Sự tương phản giữa “tối” và “sáng”

            – Phố huyện về đêm chìm trong bóng tối:

            • “Những con phố và ngõ phố dần chìm trong bóng tối.”
            • “Đường ra sông tối hơn, đường từ chợ vào nhà, ngõ vào làng.”
            • ⇒ Bóng tối bao trùm, dõi theo từng bước đi của người dân trong thị trấn.

              • Ánh sáng sự sống hiếm hoi và nhỏ nhoi: khe hở, quầng sáng, đốm lửa nhỏ, hạt đèn…⇒Ánh sáng yếu ớt, soi rọi những kiếp người nghèo khổ nơi phố phường.
              • Tương phản ánh sáng và bóng tối
              • ⇒ Bóng tối bao trùm, ánh sáng chỉ còn mong manh, nhỏ nhoi ⇒ Một kiếp người bé nhỏ sống lay lắt, lụi tàn trong bóng tối vô biên của xã hội cũ.

                b. Cuộc sống của người nghèo trong bóng tối:

                – Công việc lặp đi lặp lại hàng ngày:

                • Chị tôi đang lau nước
                • Cháy quán phở.
                • Gia đình Xâm “ngồi trên chiếc đệm rách, trước mặt là chậu sắt”, “thầm lặng chơi đàn”
                • + lien, tôi điều hành cửa hàng tạp hóa nhỏ này.

                  ⇒ Cuộc sống tẻ nhạt, phẳng lặng, đơn điệu không lối thoát.

                • Vẫn mơ mộng: “Bao nhiêu người trong bóng tối mong ánh sáng trong cuộc sống nghèo khó từng ngày” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp
                • <3

                  3. Hình ảnh đoàn tàu và tâm trạng Liên An đợi chuyến tàu đêm

                  – Liên kết và thức bằng cách:

                  • Bán hàng
                  • Xem hoạt động cuối cùng trong đêm khi chuyến tàu đêm chạy ngang qua nó.
                  • – Hình ảnh đoàn tàu có biển báo đầu tiên:

                    • Lian cũng nhìn thấy “ngọn lửa xanh”
                    • Hai chị em nghe thấy tiếng lao xao và tiếng xe rú ga.
                    • – Khi tàu đến:

                      • Cỗ xe được thắp sáng rực rỡ, chiếu sáng đường phố.
                      • Tầng trên sang trọng đầy ắp người, đồng và niken sáng lấp lánh, và những ô cửa sổ lấp lánh.
                      • – Khi tàu chạy đêm:

                        • Hãy để những viên than hồng bay trên đường ray.
                        • Đèn xanh treo trên chiếc xe cuối cùng khuất xa sau rừng trúc.
                        • ⇒Tiếng tàu ầm ĩ, ánh đèn rực rỡ đưa cả khu ổ chuột đến một thế giới khác, thế giới mà cô hằng mong ước

                          Ba. Kết luận:

                          • Tóm tắt những nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện ngắn thành công
                          • Hai đứa trẻ là tiêu biểu cho phong cách văn học của Thạch Lam: kết hợp yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, mộc mạc mà sâu sắc.
                          • ..

                            Xem thêm: Dàn ý phân tích hai đứa trẻ

                            Bản đồ tư duy của hai đứa trẻ

                            Phân tích 2 con tốt nhất

                            Phân tích 2 em – mẫu 1

                            Nếu các nhà văn tự lực cánh sinh miêu tả cuộc sống bằng tất cả những gì tốt đẹp nhất, trong sáng nhất của nó, thì Thạch Lam có cách của mình. Trong mắt anh, cuộc sống không chỉ là tình yêu mãnh liệt đến mức quên cả thế giới và mọi người, mà còn có cả nỗi đau. Ngòi bút hòa vào cuộc sống, nhào vào những ngóc ngách của tâm tư con người và chắt lọc ra bức tranh cuộc sống ở một vùng nghèo khó (hai đứa trẻ) nơi bóng tối bao trùm lấy cuộc sống. Con người cực đoan, ác độc.

                            Cảnh sinh hoạt cộng đoàn bắt đầu từ lúc hoàng hôn và kết thúc bằng cảnh chị em tôi cùng mọi người đợi tàu. Toàn bộ bức tranh tối đen như mực, bóng tối lan tỏa bao trùm cả khung cảnh tạo nên một không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một màu xám và đen. Bóng tối của rừng trúc, bóng tối của góc quán, bóng tối của những con đom đóm lập lòe. Mọi thứ, mọi thứ chìm trong bóng tối. Trong cộng đồng ban đầu không giàu có, cuộc sống của người dân bị bao trùm trong màn đêm, bị áp bức và ngày càng trở nên cô đơn và hoang vắng. Đâu đó, vài đứa trẻ nhặt chúng ở một góc chợ vắng trong đêm. Hai chị em đi chơi ở cùng một tiệm cắt tóc đã vắng khách. Quán phở của bạn đang lăn bánh siêu âm thầm… Những hình ảnh hiu quạnh, đơn chiếc và vài ngọn đèn nhỏ nhoi ấy không đủ xua đi bóng tối dày đặc, bao trùm đang dần đè nặng lên cuộc sống của họ – những con vật, những con người “nhiều”, “nhiều người” của vô số động vật. Bóng tối và các đồng minh của nó cai trị sự im lặng của cõi người. Thời gian bỗng trở nên im lặng, ai oán lạ lùng. Không gian ngột ngạt của kiếp người. Bức ảnh ấy gợi lên biết bao nỗi buồn.

                            Nhưng măng đá – người nghệ sĩ tâm hồn ấy không chỉ dừng lại ở việc vẽ bóng tối. Bóng tối đáng sợ, nhưng cuộc sống xung quanh thậm chí còn đáng sợ hơn. Họ đều là những người nghèo ở đây. Đây là một gia đình anh chị em phải lên thị trấn vì nghèo. Đó là bà già điên: đó là gia đình bác Xẩm; đó là gánh hàng của chị tôi; đó là quán phở của bạn. . . Những người dân nghèo nơi phố huyện không ồn ào cũng đủ để quây quần bên nhau. Một sự buồn tẻ khủng khiếp bắt đầu. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: không cần ngoảnh lại, hai chị em cũng biết tiếng cười sau lưng khách là của bà cụ, khi thấy ánh sáng xanh hiện ra đằng xa, các chị cũng biết đó là gánh phở của siêu.

                            Trong nhiều năm, nhiều tháng, họ cứ lặp đi lặp lại cùng một việc. Một công việc nhàm chán cũng nhàm chán như cuộc sống của chính bạn. Những biến cố ấy khiến cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, tuyệt vọng và họ không biết đi về đâu. Đối với họ, dường như không có tương lai, chỉ có một thực tế đáng buồn, vô vọng. Trước mắt họ, cánh cửa tương lai đã đóng lại. Họ không mong ước gì và không chờ đợi ai. Hiện tại chỉ có nghèo đói, khó khăn, tù túng và công việc nhàm chán. Bức tranh ấy gợi nỗi đau trong tâm hồn người đọc, những tiếng kêu uất ức không lời giải đáp.

                            Mọi hành động, sự việc và cuộc sống của người dân vùng nghèo đều lặp đi lặp lại và nhàm chán. Chỉ có chuyến tàu cứ lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu này là hiện thân của hy vọng, là hiện thân của tương lai của mọi người. Họ đến chờ đợi con tàu không chỉ để buôn bán mà còn mong đợi một điều gì đó khác lạ trong cuộc sống vốn đã đơn điệu xung quanh họ. Tiếng máy tàu gầm rú phá tan bầu không khí vốn đã nặng nề u sầu, ánh sáng rực rỡ chói lọi xé tan màn đêm, lại chìm vào bóng tối như cũ. Cùng với các chị em, con thuyền còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng phồn hoa của Hà Nội, là nét mới lạ của hiện tại và ước mơ của tương lai. Hình ảnh con tàu đi qua làm dịu đi những bế tắc của cuộc đời và để lại sau lưng một ước mơ – một ước mơ rất tội nghiệp của tất cả mọi người.

                            Nếu các nhà văn của nhóm văn học tự lực đã tách rời thực tế và thi vị hóa cuộc sống, thì Lin Zelin mặc dù là thành viên chủ chốt của nhóm văn học đó, nhưng tác phẩm của ông đã gần gũi với cuộc sống. Nếu các đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu trong sự say đắm, tình yêu trong nỗi đau, tình yêu trong sự hỗn độn (Hồn bướm, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại nói đến tình người. Văn học oải hương đi vào nơi sâu thẳm nhất của lòng người, thức tỉnh con người với nỗi đau. Ngòi bút thạch anh tím vừa lãng mạn vừa hiện thực, viết nên cuộc đời của những con người nghèo khổ, những nỗi đau thầm lặng, nhẹ nhàng, không thể quên khi trang sách khép lại. Không phải nụ cười thấu tim của Nguyễn Công Hoan, không phải nỗi đau thấu tim của nam cao, mà những chương văn nhẹ nhàng, tinh tế mà sâu sắc của Thạch Lâm đã lột tả hết những điều đó. Việc miêu tả xã hội Việt Nam đông đúc, ngột ngạt lúc bấy giờ mang đến cho người đọc một cảm nhận đầy nhân văn.

                            Tuy không vững vàng, kiên định như một số nhà văn cách mạng trong hành động, nhưng nó có một quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: văn chương không phải là một lối thoát hay lãng quên, trái lại, văn chương “phải là một con đường cao cả và hữu hiệu”. vũ khí”, đó là tiếng kêu than cho những đau khổ, thống khổ, khắc khoải, khác hẳn với các nhà văn lãng mạn lúc bấy giờ. Sự cứu rỗi đáng quý của ông đối với hai đứa trẻ sẽ mãi làm người đọc xúc động.

                            Phân tích 2 em – mẫu 2

                            Cùng với Nan Cao, Ruan Gonghuan, Wu Datu, Jin Lan, Wu Zhongfeng và những nhà văn lớn trong nước chuyên viết về chủ nghĩa hiện thực trước 1945, Tạ Lâm cũng là một trong số đó. Nhà văn xuất sắc và tiêu biểu về đề tài này. Thạch Lâm đã tự đặt cho mình một câu nói rất tâm đắc cho công việc văn chương của mình: “với tôi, văn chương không phải là cách để người đọc trốn tránh hay lãng quên, mà văn chương là một vũ khí cao quý và mạnh mẽ mà chúng ta có, nó không chỉ có thể lên án. và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, mà còn làm cho lòng người trong sáng và phong phú hơn”. Bản thân nhà văn khi viết về số phận con người trước cách mạng cũng chọn cho mình một lối đi rất riêng, một lối viết có truyện nhưng không có cốt truyện, và chọn cho mình một lối viết tỉ mỉ, tinh tế, biểu cảm. Tâm quan sát, cảm nhận sâu sắc. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng ẩn chứa một nỗi buồn len lỏi trong từng câu văn, Thạch Lam mang đến cho chúng ta một bức tranh về cuộc sống của những con người nhỏ bé mà không ai còn nhớ. tỉnh. “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm hay nhất của Lin Zelin về cuộc sống tiểu tư sản dưới số phận của kẻ đã chết, nhưng luôn có một hy vọng và mong muốn thoát ra khỏi cuộc sống bế tắc đó và nhìn thấy hướng đi tốt hơn.

                            Tuổi thơ của Thạch Lâm là một tuổi thơ đầy khó khăn và cơ cực, cha anh là một trí thức tiểu tư sản, nhưng do thời thế xã hội thay đổi nên ông thất nghiệp, gia đình Thạch Lâm phải từ thủ đô Hà Nội náo nhiệt lên đây lập nghiệp. Quê bà ở thị trấn Tấn Giang, tỉnh Hải Dương. Từ đó hai người chị của ông phải sống trong cảnh nghèo khổ, sớm vào đời cũng vì cuộc sống mưu sinh nơi đây, có lẽ vì thế mà vùng đất này trở đi trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của Thạch Lam. Đặc biệt đối với hai đứa trẻ, ấn tượng về một thị trấn tối tăm, nghèo nàn, im lìm, chết chóc và cả hình ảnh người chị họ Liên đã để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc.

                            Hình ảnh thị trấn trong các tác phẩm xuất hiện từ hoàng hôn đến bình minh, trong đó ấn tượng nhất là miêu tả của Lin Zelin về thị trấn quận lúc hoàng hôn, mộc mạc, lãng mạn, thơ mộng và phảng phất chút buồn. Trước bức tranh cuộn của thiên nhiên là tiếng trống thu, không “gọi chiều ầm ĩ từng hồi”, chậm rãi, ngân dài, uể oải như nhấn sâu vào lòng người, bên cạnh tiếng kêu của “những chú ếch nhái”. Cánh đồng”, “muỗi bắt đầu vo ve” và cả tiếng kẽo kẹt của những chiếc chõng tre… Có thể thấy buổi chiều ở thị trấn nhỏ thưa thớt, chậm chạp, rời rạc tạo cho người ta cảm giác bé nhỏ, đìu hiu và còn nghèo nàn. ấn tượng, đen tối, nặng nề, buồn bã, mệt mỏi Thứ hai, chúng tôi sẽ tinh tế đưa màu “phía tây đỏ như lửa cháy, mây hồng như than tàn” qua đá xanh, để thấy được sự kết thúc của ngày rõ hơn. Nó có màu đỏ, một màu hồng rực rỡ. Những tưởng mang lại niềm vui nào đó, nhưng với hai đứa trẻ, đó là dấu hiệu không thể nhầm lẫn của ngày tàn, sự huy hoàng rực rỡ của mặt trời cuối cùng trong ngày, ánh sáng ban ngày. Điều duy nhất còn lại trước khi màn đêm buông xuống Bức tranh mặt trời lặn tuy đẹp, lãng mạn như một họa sĩ đa năng nhưng cũng nhuốm màu buồn của sự kết thúc, gợi cho người ta một sự tiếc nuối xa xăm Và người ta rất yêu thích bức “rừng tre trước làng nhuộm đen” của thạch lâm, nét mờ của trời cắt rõ” ấn tượng hơn, bức tranh cho người đọc cảm nhận rõ khoảnh khắc ngày đêm luân phiên. còn sáng vì mặt trời chưa tắt hẳn Bóng tre già nhọn hoắt trên đó Giống như một bức tranh màu nước ảm đạm, rất tĩnh lặng Bên cạnh một bức tranh thiên nhiên là sự kết thúc của đời người lúc hoàng hôn, và không có gì ngoài sự chuyển động buồn tẻ, chậm chạp và tĩnh lặng, đây là hình ảnh của buổi chợ tàn, tiếng ồn ào đã tắt, thay vào đó là “Đất chỉ có rác, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” và cảnh cô bé tội nghiệp của những đứa trẻ cố gắng linh hoạt hết mức có thể, lục lọi trong đống rác bẩn thỉu để tìm thứ gì đó còn dùng được.. Cảnh tượng như vậy tạo nên sự phân biệt giả tạo. Số phận bi đát, nghèo đói, hẩm hiu của thành phố là sự bất hạnh và đáng thương. Và cả cái mùi “ẩm bốc lên…” gợi lên sâu sắc cái ẩm thấp, bẩn thỉu, buồn tẻ của thị trấn nghèo tối tăm này.Cùng với cảnh tàn, cuối chợ là sự xuất hiện của những mảnh đời xác xơ. tội nghiệp những đứa trẻ nghèo nhặt rác ở chợ phải bươn chải với công việc mưu sinh Hai mẹ con trẻ, người em gái sống trong cảnh lam lũ, ban ngày mò cua bắt ốc, tối mò ốc bán hàng, gánh hàng rong, ít khách, cuộc sống ảm đạm, kế đến là hình ảnh một bà lão điên khùng, nghiện rượu với tiếng cười đầy ám ảnh, dễ gợi cho người phụ nữ khốn khổ này những sóng gió, đau thương trong cuộc đời. những đứa con sớm bươn chải kiếm sống, vùi đời trên chiếc chõng tre mục nát bên cạnh quán tạp hóa dột nát, Ẩn sau hai chị em là hình bóng thoáng qua của người mẹ, một người phụ nữ lam lũ, lam lũ. .Tất cả cuộc sống này cho ta những cảm nhận chung về sự nghèo nàn, tăm tối, buồn tẻ và thiếu sức sống của thành phố, nơi khiến con người ta thấy tăm tối và bế tắc.

                            Trong Đời hấp hối, Thạch Lam đã chọn Liên là nhân vật chính, một cô bé khoảng 9, 10 tuổi, nhưng có lẽ vì sống trong hoàn cảnh nghèo khó và bươn chải kiếm sống nên trong cô luôn có một sự trưởng thành đang chờ đón phía trước. về Thời đại của cô ấy, đặc biệt là một tâm hồn nhạy cảm và yêu thương một cách ấn tượng. Những cảm xúc tinh tế của Lian được bộc lộ ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm, “Đôi mắt cô ấy dần phủ đầy bóng tối, và nỗi buồn của buổi chiều quê hương tràn ngập tâm hồn ngây thơ của cô ấy”, và cách cô ấy ngắm hoàng hôn ở Quzhen đã khiến cô ấy trở nên độc đáo. Vì đối với một đứa trẻ 9, 10 tuổi, nỗi buồn và sự hoang vắng của quê hương có lẽ là những điều rất mơ hồ, và đôi khi chúng không thể nhận ra chúng, nhưng chúng khác với những gì nó nghĩ và nghĩ. Linh hồn của bạn, hãy để lại những suy nghĩ hoang dã trong tâm hồn trẻ thơ của bạn. Sự tinh tế, nhạy cảm của Liên còn thể hiện ở sự cảm nhận về mùi hương đặc trưng của quê hương “một mùi ẩm thấp bốc lên, hơi nóng ban ngày quyện với mùi bụi quen thuộc, làm người phụ nữ cứ ngỡ là mùi ấy. của đất, Mùi của ngôi nhà này.” Rõ ràng không phải là mùi dễ chịu của cam, mà là một mùi ẩm mốc, mốc meo xộc thẳng vào lỗ mũi khiến nó khó chịu và chán nản. Nhưng với Lian, đó là mùi hương đặc trưng của quê hương, cô cảm thấy gần gũi, thân thương và gắn bó. Sự tế nhị và nhạy cảm của Lian không chỉ thể hiện ở cách cô quan tâm và yêu thương người khác, hai mẹ con nhìn bà lão với ánh mắt thương hại. Chợ xót xa thương hại nhưng bản thân chị cũng bất lực, vì không giúp được gì cho họ, vì bản thân cuộc sống với chị cũng thật tội nghiệp và đen tối.

                            Cảnh đêm của phố huyện tuy không thú vị bằng cảnh của ngày tận thế, nhưng nó vẫn mang và gửi gắm sâu sắc cái u ám, tăm tối, u uất của chốn tỉnh lẻ. Mở đầu là sự miêu tả bóng tối của măng đá, nhưng có lẽ người ta chưa nhìn thấy những bóng tối vô tận như thế, “phố phường tối om”, “bóng tối”. Dọc đường, đường ra sông, đường qua chợ vào nhà, những ngõ tối vào làng. “Tất nhiên, ánh sáng cũng xuất hiện, nhưng dường như nó chỉ làm cho bức tranh u tối ở đây rõ hơn, bởi dường như tồn tại những “khe sáng”, “hạt sáng” thoát ra từ tường, hay “vầng sáng” mờ ảo lắc lư của chị đèn dầu, Kèm theo đó là ánh lửa, soi sáng cả mặt đất cát nhưng nó yếu ớt không thay đổi được bóng tối vô tận, thay vào đó những nguồn sáng yếu ớt ấy dường như bị bóng tối nhấn chìm khiến không gian càng thêm u ám, thê lương. đang len lỏi như ánh sáng. Thầy tu mù xuất hiện trong đêm không đủ soi đường đời. Nửa đêm người ta thấy đời đang tàn, đôi bạn trong tiếng đàn bầu, chán nản, đứa trẻ bò trên mặt đất, Nghịch rác bẩn, rất buồn Hai mẹ con hơi chán, vẫy ruồi bên guồng nước, buồn tẻ và ảm đạm. không phù hợp với thành phố nghèo, còn các chị em Chôn vùi suốt đời trong chiếc giường tre mục nát từ sáng đến tối, không được sống sung túc như những đứa trẻ khác mà sớm muộn gì cũng phải bươn chải kiếm sống, bán chút tiền lẻ xà bông, ít rượu cút v.v., nhưng có một điều Buồn cười là trong không gian tối tăm, khốn khổ ấy, khi những con người trong bóng tối “quá” mong ánh sáng cho cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của mình, thì ít ra người ta vẫn nhìn thấy được ánh sáng tồn tại trong tâm hồn con người”, đó là điều ước, là niềm hy vọng về một cuộc sống tươi sáng tốt đẹp hơn, là ước mơ thoát khỏi hình bóng người chết. Dù tối nhưng vẫn mơ hồ, xa xăm.

                            Sau khi tàn và đêm buông xuống, sự xuất hiện của chuyến tàu đêm đã cho tôi một góc nhìn khác, một điểm sáng cho thấy giá trị tư tưởng mà Thạch Lam muốn gửi gắm. Có lẽ điều mà mọi người ấn tượng nhất là người dân trong xóm kìm nén sự mệt mỏi, mong chờ chuyến tàu đêm mỗi ngày. Thế nhưng, biết đâu, chuyến tàu ấy lại có ý nghĩa rất lớn với người dân nơi đây, bởi “con tàu này như mang theo một chút thế giới khác”, mang theo những điều rất khác, có thể đó là sự nhẹ nhàng, phấn khích và cả tấm lòng. hy vọng lấp lánh cho tất cả mọi người. Vì vậy, khi đoàn tàu vừa xuất hiện, các chú vội reo lên sung sướng: “Đèn tắt rồi” để đánh thức mọi người, đoàn tàu hiện ra phía xa, và “khói trắng bốc lên phía xa”. Hai chị em Liên vừa kịp ra khỏi giường để chiêm ngưỡng vẻ ngoài của con tàu, lòng thích thú và hồi hộp, đối với An nó như một món đồ chơi, nhưng với Liên, con tàu đã về đến nhà. vốn. Trên tàu có những âm thanh to, mạnh khác nhau “xù xì, xì xì”, “hành khách hơi ồn ào”, “tiếng còi rít lên, tàu chạy lạch cạch”, yếu ớt, chậm chạp, vô hồn. Ánh sáng do tàu hỏa mang lại cũng khác với “toa xe rực rỡ, chiếu rọi trên đường… đồng và niken sáng loáng, cửa sổ sáng sủa sạch sẽ” hoàn toàn trái ngược với ánh sáng của người mù. , mờ dần ra khỏi thị trấn từng người một. Bên cạnh đó, sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát của đoàn thuyền cũng mang đến một không khí khác, nhộn nhịp “tàu đang đến”, “đoàn xe qua” lấn át sự chuyển động chậm chạp, chậm chạp, rời rạc, tăm tối và bế tắc của các tỉnh thành. Chuyến tàu từ Hà Nội trở về đã mang đến cho cô một cảm xúc khó tả, bởi đoàn tàu là biểu tượng của sự giàu sang, sung túc, nó gợi cho cô nhớ lại những ngày còn ở Hà Nội, cô giáo giàu sang, cuộc sống an nhàn, ăn ngon vui vẻ là chính. những người dân ở đây và thế giới mà họ khao khát. Nhưng khi đoàn tàu chạy qua, thị trấn lại trở về dáng vẻ vốn có, u ám và buồn tẻ hơn, bởi người ta không còn kỳ vọng, và ngày dài đã thực sự kết thúc. Người tản đi, yên lặng vô biên, chỉ có tiếng chó sủa giữa đêm khuya.

                            Lúc mới đọc thach lâm mới thấy tác giả chỉ viết những thứ quá tầm thường, nhỏ nhặt, vụn vặt, nhưng đọc đến mấy dòng cuối thì mới hiểu dụng ý của tác giả. Vẻ đẹp ở khắp nơi trong hang và tận cùng, và những gì anh ấy làm là đào nó lên cho mọi người xem, giống như anh ấy vẽ nên vẻ đẹp của cảnh giường bệnh, phác họa tâm hồn tinh tế và mối quan hệ nhạy cảm, và đi cùng với nó, vô cùng sâu sắc những giá trị nhân văn, để mọi người đọc cùng suy ngẫm.

                            Phân tích 2 em – mẫu 3

                            thạch lam là cây bút thâm trầm của Tự lực văn đoàn, một phong cách không ai nhầm lẫn được. Mỗi trang văn của ông là một lời thì thầm tình cảm làm say lòng người đọc. Đây là những truyện không có cốt truyện, được viết bằng chất liệu nhẹ nhàng, nam tính, thường là của hai đứa trẻ.

                            Sự ẩn ý, ​​nhẹ nhàng trong câu văn tạo nên phong cách độc đáo của măng đá. Câu chuyện của hai đứa trẻ xoay quanh cuộc sống lao động lặp đi lặp lại hàng ngày của Lian An và An ở những vùng đất nghèo khó. Tác giả mong muốn truyền tải những thông tin cuộc sống có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đến người đọc thông qua sự tiếp xúc và cảm giác an toàn.

                            Ẩn trong truyện ngắn là khung cảnh một thị trấn nhỏ vùng nghèo. Mở đầu là tiếng trống thu trong ánh hoàng hôn, cảnh vật và con người đắm chìm trong một không gian mê đắm. Tại sao thạch lam lại chọn một buổi chiều mùa thu để vẽ thị trấn? Mùa thu buồn, nó hoài niệm và gợi nhiều cảm xúc. Những con đường nghèo, những con hẻm cuối cùng gợi lên sự u ám rồi biến mất trước mắt người đọc, đây cũng là hiện thực xã hội của thời đại ấy ở nước ta, cái gì cũng tẻ nhạt, dường như không có sức sống, cái gì cũng gần với cái nghèo đến mức trầm cảm.

                            Trong mắt Lian An và những người khác, khi mọi người trở về, thị trấn trông tồi tàn và nghèo nàn trước cảnh chợ vắng. Ống kính măng đá lướt qua bãi rác nơi hội chợ quê đông đúc khắc họa một thứ mùi đặc trưng khiến hai đứa trẻ cảm nhận đó là hương vị riêng của vùng đất này, xứ sở này. Bằng cách này, Qucheng ám ảnh hai đứa trẻ, ám ảnh độc giả với những hình ảnh, màu sắc và hương vị như vậy trong những năm này.

                            Đứa trẻ tội nghiệp hiện ra trong cảnh hoang tàn, dột nát, tồi tàn. Họ đi nhặt đồ thừa. Mẹ con tôi mấy ngày mò cua bắt ống, đến đêm đốt xác, nhà chú Thâm ngồi bên chiếc chiếu rách, trước mặt là chậu thiếc, trong bóng tối, trong bóng tối. .tất cả những mảnh đời khốn khổ, điêu tàn đó, trong đó có các chị. Trong mắt Lian, cuộc đời chìm trong bóng tối vô tận, không lối thoát, chỉ còn ngọn đèn của chị, bếp của chú, và những ngọn đèn ở Mỹ đã tắt….

                            Những con phố của cộng đồng lúc chiều tà như một bản nhạc buồn không hồi kết, đơn điệu và buồn tẻ. Cả Ẩn và họ đều không thể cảm nhận được sự buồn tẻ trong cuộc sống của bọn trẻ, sự bế tắc trong cuộc sống hay niềm khao khát mơ hồ của chúng về tình trạng trì trệ ở đây. Nhưng với sự nhạy cảm cao độ, em bé có thể cảm nhận được niềm khao khát thiêng liêng của chính mình, khao khát được thoát khỏi cảnh tăm tối tù đọng để sang một thế giới khác. Bằng chứng của mong muốn này là hành động thực sự chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua. Chuyến tàu đi qua thị trấn như đưa chúng tôi vào một thế giới khác, một thế giới khác với thế giới mà hai đứa trẻ đang sống, cũng là ánh sáng, nhưng không phải ánh sáng của ngọn đèn nhỏ, cũng không phải ánh sáng của chú. Siêu tuyệt vời.

                            Thạch Lâm không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, ông là nhà văn lãng mạn nên từng chi tiết của thị trấn nghèo đơn sơ được miêu tả sinh động. Bức ảnh về một làng quê Việt Nam mù xám nơi những người lao động nghèo sống trong bóng tối và bế tắc. Tác giả bày tỏ niềm thương cảm chân thành đối với những con người đó, mong thay đổi cảnh nghèo đói, tăm tối cho những con người đó.

                            Phân tích 2 em – mẫu 4

                            Nội dung chính của truyện “Người con thứ” là tấm lòng “mát lạnh mà sâu nặng” của cụ đối với dân, với nước, ở đây nhà văn chỉ bày tỏ niềm xót xa cho kiếp người. Những người lang thang trong xã hội cũ tỏ ra thông cảm và trân trọng trước những mong ước rất mơ hồ của họ. Qua câu chuyện của hai đứa trẻ, người đọc cũng cảm nhận được phần nào nỗi nhớ quê của Thạch Lam.

                            Đọc truyện của hai đứa trẻ, ấn tượng đầu tiên là con người trong xã hội cũ vô hồn, tù túng, nghèo khổ, lang thang khắp nơi, không ánh sáng, không tương lai.

                            Truyện mở đầu bằng một câu văn êm dịu, âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống đồng bên chòi canh từng hồi vang lên, chiều Tây đỏ lửa, và mây hồng như than tàn Lũ tre làng trước mặt đen kịt đen sì.

                            Chiều, trời đã về chiều. Một khúc hát ru buổi chiều, vang vọng tiếng ếch nhái ngoài đồng, cùng làn gió nhẹ hiu hiu. ’ Đây là một trong nhiều bằng chứng của tác phẩm này cho biết: “Văn của Thạch Lam ít thừa, khi thừa thì không khuất phục trước sức hấp dẫn của sự phức tạp mà hình ảnh, nhạc điệu phong phú, uyển chuyển (vũ ngọc phan) . Nó không chỉ cho người đọc ngắm cảnh mà quan trọng hơn nó gợi lên những tình cảm, cảm xúc về cảnh. Ngoài ra, các cảnh quay hầu hết đều rất gần gũi, bình dị và đậm chất Việt Nam.

                            Bên cạnh những điểm tham quan, cuối chợ là cuộc sống của những kẻ hấp hối. Ban ngày bà mò cua bắt tép, ban đêm đến rót trà, thắp ngọn đèn dầu leo ​​lét. Quán vắng khách, chiều nào chị cũng dọn từ chập tối đến sáng nhưng cũng “không được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên chiếc đệm có chậu nước trước mặt “góp vài tiếng đàn tỳ bà lặng lẽ”.

                            Cậu bé bò ra đất ngoài chiếu và chơi với đống rác bẩn thỉu được chôn bên vệ đường. “Bà già hơi khùng, nghiện rượu, nhấp một ngụm là cười ngặt nghẽo. Rượu cút ti, “Ông già đi bóng tối”. Hai chị em phải tỉnh táo trông coi “quán tạp hóa nhỏ, Từ khi cả nhà rời Hà Nội về quê, mẹ tôi bươn chải, vì cô giáo mất nghề “hàng” bán không ra tiền”, xót xa cho những đứa con nhà nghèo nhưng “không có tiền tiêu” “.

                            Cảnh xếp hàng lấy hộp, cách đếm tiền của hai chị em, sự tiếc nuối khi còn ở Hà Nội vẫn thường “ra hồ uống nước lạnh xanh đỏ”, ý ​Phở chú siêu là “món quà xa xỉ” mà các chị em sẽ không bao giờ mua được”…hãy hình dung hoàn cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình. Tuy nhiên, có lẽ dù thế nào đi chăng nữa, nhà của hai đứa trẻ vẫn tốt hơn nhà của em gái và chú Thâm, bởi có một gian hàng nhỏ do một bà già thuê, có “khúc gỗ khúc gỗ” ngăn cách bằng tấm bình phong. ..

                            Vì vậy, từ gia đình cô em gái, gia đình người chú, đến bà chị già, mỗi người một cảnh nhưng đều có chung một nỗi buồn chán và mệt mỏi… Điều hiếm hoi hơn nữa là tất cả những nhân vật nhỏ bé này đều xuất hiện dưới ánh mắt đáng thương của Shi Lan. Trong đó, nó được thể hiện bằng những từ ngữ và chi tiết có vẻ khách quan.

                            Khi trời tối hẳn, cả thị trấn dường như chỉ hấp thụ ánh sáng của cô. “Bóng tối kiên nhẫn của đất nước” (Globetrotter) có mọi thứ trừ chiếc đèn này. Không phải ngẫu nhiên trong bố cục mà tác giả đã bảy lần nhắc đi nhắc lại chi tiết ngọn đèn của bà. Kết thúc truyện, bức tranh ấn tượng, day dứt cuối cùng và cả khi tôi đã chìm vào giấc ngủ, đó vẫn là “ngọn đèn em gái soi một mảnh đất nhỏ”.

                            Hình ảnh này chẳng phải là biểu tượng cho cuộc sống của những người nghèo khổ trong xã hội thực dân nửa phong kiến, sống lay lắt, chui lủi trong bóng tối hay sao? Nhịp sống nơi phố huyện này cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu, tuần hoàn và buồn tẻ.

                            <3 Hay còn gọi là ngư tổ tôm. Hằng đêm, hai chị em luôn phải đi nhận hàng, “em phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng”, “chiều tối mẹ ra đón”…

                            Vì vậy, “rất nhiều người trong bóng tối” sống quanh ngày qua ngày, bị mắc kẹt trong “Pingtang của cuộc sống” (sự kỳ diệu của mùa xuân). Hình ảnh những người này làm chúng ta nhớ đến mấy câu thơ trong bài thơ du dương của Hồ Yan:

                            Chỉ một vài tư thế và cùng một lượng khuôn mặt qua lại. Bởi vì nó rất gần, nó rất buồn cười, và đôi môi lặp lại cùng một điều.

                            Nhớ lại cuộc sống đơn điệu của những nhân vật như Joan “ăn mai rồi tối, ngày hai bữa” và phú cho ý tưởng về Hoàng đế Xuan Erqiao tỏa sáng trong truyện cổ tích. Tuy nhiên, người dân thị trấn vẫn hy vọng rằng, mặc dù là mơ hồ: “đem ánh sáng đến sự nghèo khó hàng ngày của họ”.

                            Chính sự chờ đợi mơ hồ ấy như khoét sâu thêm hoàn cảnh khốn khó của các nhân vật trong truyện. Họ sống ở đó, nhưng chúng tôi không biết số phận sẽ ra sao vào ngày mai! Nỗi ngậm ngùi cay đắng của Thạch Lam dành cho thạch lam được thể hiện một cách cẩn thận, chính xác trong cách ông khắc họa con người: trong bối cảnh và trong giọng điệu đều đều, chậm rãi, thê lương.

                            Phân tích 2 em – mẫu 5

                            Thạch Lam là cây bút văn xuôi Lãng mạn tiêu biểu trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1945, tác phẩm của ông liên quan sâu sắc đến việc đào sâu vào cái trần tục và bình dị. Các tác phẩm thường “không có truyện”, nhưng để lại dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp của trái tim con người. “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm giản dị và sâu sắc.

                            Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] Khái niệm Chịch, Đụ, Nện, Xoạc là gì? Có sướng không?

                            Tác phẩm được xuất bản trong tuyển tập “Nắng trong vườn” năm 1938. Các tác phẩm là những mảnh ghép của cuộc sống thực từ chập tối đến đêm khuya ở những vùng đất nghèo khó. Nhưng với ngòi bút mảnh mai, bút mực đã xoáy sâu vào vẻ đẹp của con người và cuộc sống nơi đây.

                            Mở đầu tác phẩm là tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng trống thu im ắng, tiếng muỗi vo ve khắp nơi, một khung cảnh thiên nhiên rất nên thơ và hoang vắng. Nếu có âm thanh cũng không đem lại sự tươi vui, náo nhiệt mà ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh lặng của cảnh vật và sự ảm đạm của không gian. Tông màu chủ đạo của cảnh vật là đỏ như lửa: “Phía tây đỏ như lửa, mây đỏ như than”. Những màu này thường gợi lên sự sống, còn hơi ấm trong bức tranh tráng men lam chỉ gợi lên điềm gở, mặt trời sắp lặn, mây và than sắp tàn. Màn đêm dần buông xuống, sương mù u buồn bao trùm cả khung cảnh.

                            Trong không gian buổi tối, bức tranh sinh hoạt của con người cũng không sáng sủa hơn là mấy. Khi chợ đã đóng cửa trong một thời gian dài, chỉ có một âm thanh “tiếng ồn ào biến mất”, khiến khu phố và thị trấn trở lại sự yên tĩnh vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại những vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, tất cả đều do người dân bỏ lại sau buổi chợ. Những đứa trẻ tội nghiệp vẫn đang cố gắng tìm kiếm và nhặt nhạnh những gì còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ ảm đạm mà còn tồi tàn. Không gian ấy khiến ta ám ảnh và thương cảm cho những số phận, những sinh linh đáng thương đang sống cuộc đời mòn mỏi nơi đây.

                            Lian là một cô gái trẻ, tinh tế và nhạy cảm, vào thời khắc tận thế, cô có thể nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi của tự nhiên. Tôi nghĩ cái mùi quê hương trong chợ rau đã qua: “mùi ẩm mốc lẫn với mùi bụi đất quen thuộc…” là một thứ mùi đi sâu vào hồn tôi, vào tận sâu thẳm tâm hồn một con người. Nặng lòng, gắn bó sâu sắc để trở về đất mẹ.

                            Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống trong khu vực vẫn tiếp diễn. Thường xuyên chuẩn bị, hối hả “chong đèn vẽ tranh”, đếm hàng bán được trong ngày. Rồi có Cô Chị, Chú Xẩm, Chú Phở siêu. Cô gái trẻ rửa nước và đợi một khách hàng quen vào uống tách trà. Hủ tiếu chú Tiểu là món ăn xa xỉ đối với người dân phố huyện nên lúc nào cũng vắng khách. Chú xẩm không kiếm được nhiều bằng cách “thầm chơi đàn tranh”. Hình ảnh nhà thơ điên có lẽ đã gây nhiều ám ảnh trong lòng người đọc, lúc nào cũng say khướt, lững thững đi, dường như đến với hơi men, quên đi cuộc sống thực tại tẻ nhạt và những nỗi đau của cuộc đời. Thực tế. Người dân trong cộng đồng vẫn đang từng ngày vật lộn mưu sinh, sống cuộc sống mệt mỏi mà chưa tìm được lối thoát. Họ cũng có một ước mơ “Bao nhiêu người trong bóng tối mong một điều gì tươi sáng hơn…” Nhưng đó chỉ là một ước mơ mơ hồ, chập chờn, không mục đích, không đích đến. Nhưng ước mơ đổi đời của người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

                            Cuối ngày, khi bóng tối bao trùm xung quanh, những nhũ đá tìm lại khoảnh khắc đẹp và lãng mạn qua cảm nhận rất tinh tế của con người. chạm vào đối tượng. Cô bé thích nhìn lên bầu trời đêm đầy ngàn vì sao, tưởng tượng đó là dải ngân hà và hai chú vịt đang theo chân Chúa. “Ngàn sao vẫn lấp lánh giữa kẽ lá cành bàng, đom đóm bám lá, ngọn đèn xanh nhỏ lập lòe, bông bàng nhẹ rơi trên vai…” Anh là người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. những “phố, ngõ vắng dần” đầy bóng tối”, tôi vẫn đi tìm những nguồn sáng khác lạ từ thiên nhiên, cảm nhận sự rơi nhẹ nhàng, dịu dàng của bông hoa bàng rủ xuống. ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi đi tìm những nguồn sáng để xua tan bóng tối: khe sáng, hạt sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy thì nhiều nhưng nhỏ bé, mong manh và yếu ớt, không đủ để xua tan bóng tối. Đây cũng là khát khao đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quanh mình và sự bế tắc của thực tại .

                            Nhưng có lẽ khoảnh khắc đẹp đẽ và huy hoàng nhất là khoảnh khắc đoàn tàu đi qua vùng đất nghèo khó. Không ai ngủ, không ai ra về trước khi tàu đi qua, ai cũng thức chờ tàu đến, không phải để bán thêm vì chẳng mấy ai mua, mà để thấy chút ánh sáng của sự sống, của ánh sáng niềm tin, hy vọng. Vì vậy, dù buồn ngủ nhưng khi tàu đến đánh thức tôi dậy, tôi cố nhắc nhở rằng trong tiềm thức mong manh của mình, như mọi người ở đây, tôi cũng có khát vọng đổi đời. Khi đoàn tàu xuất hiện, có tiếng reo hò: “Đèn tắt rồi”, tiếng còi tàu vang lên, khói trắng cuồn cuộn phía xa. Chuyến tàu đi qua mang theo quá nhiều âm thanh: “tiếng toa cộc cộc”, “tiếng hành khách thật khẽ”, “tiếng còi”, trái ngược hoàn toàn với sự ồn ào, náo nhiệt và vui tươi. Thị trấn hoàn toàn yên tĩnh với khu phố. Trên xe ngựa rực rỡ ánh đèn “xe ngựa rực rỡ soi đường”, “đồng và niken trong như pha lê”, nó gắn liền với cuộc sống xa hoa, phú quý, đồng thời xua tan ngay bóng tối, mịt mù của thế gian. cuộc sống ở đây. Khi đoàn tàu đi qua, mọi người tiếp tục nhìn chằm chằm vào ngọn lửa xanh cho đến khi nó biến mất hoàn toàn. Nếu đoàn tàu đi qua mang theo ánh sáng như sao băng, thì trong phố huyện chìm trong màn đêm, chỉ còn lại một chút ánh sáng le lói. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, là hình ảnh của Hà Nội, gợi nhớ thế giới cổ tích mà hai đứa trẻ đã trải qua, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ và người dân cả vùng hằng mong ước.

                            Phân tích hai đứa trẻ

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 1

                            Truyện của thạch lam không có ngoại truyện. Điều này cũng đúng với “con thứ”. Chỉ có hai đứa từ Hà Nội vào một thị trấn nhỏ thuộc vùng nghèo để trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Buổi chiều, hai chị em ngồi trên chõng tre ngắm cảnh đường phố khi mặt trời lặn, đến đêm dù ngái ngủ nhưng vẫn cố thức chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội đi qua trước khi đóng cửa. quán ngủ.

                            Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường và thu hút người đọc bằng những tình tiết ly kỳ, những tình tiết xoắn xuýt, những câu chuyện tình say đắm hay những xung đột hồi hộp. “Hai đứa trẻ” thu hút người đọc bằng chất liệu đời thực.

                            Tuyển tập này gần gũi với Nam Cao, Nguyễn Hồng, Đỗ Hoài (những nhà văn hiện thực đầy tính nhân văn), khơi dậy những ước mơ và khát vọng cao đẹp của người đọc. Tinh thần lãng mạn này gắn liền với các văn nhân nhất linh, khai hưng, hoàng đạo.

                            Tranch blue mang phong cách nhẹ nhàng, tựa như cánh bướm đậu trên bông hoa. Tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví như tranh lụa hơn là tranh sơn dầu. thạch nhũ vẫn là một nhà văn lãng mạn. Tích cực, đẹp lãng mạn.

                            Trong Hai đứa trẻ, lãng mạn và hiện thực hòa quyện trong một buổi chiều đậm chất thôn quê. Đêm xuống, “đêm hè êm như nhung, gió thoảng…” Thiên nhiên cao rộng, đầy chất thơ.

                            “Tây đỏ như lửa, mây đỏ như than”. Nhưng ngôi làng đầy bóng tối và hoang vắng. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi bắt đầu vo ve.” “Đôi mắt của tôi được kết nối và bóng tối lấp đầy tôi.” “Tất cả những gì tôi thấy là nỗi buồn vào cuối ngày.” Chính cuộn tranh rất thực về cuộc sống, chan chứa cảm xúc của những lời yêu thương ấy đã khiến người đọc cảm thấy hoang vắng, hoang vắng. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu được rút ra từ những hình ảnh của cuộc sống nghèo phố phường.

                            Dưới con mắt quan sát của hai đứa trẻ, cảnh Khúc Trấn hiện lên thật cụ thể, sinh động và gợi cảm. Chợ đã không còn tồn tại từ lâu, chỉ còn là một khung cảnh chợ vắng tanh, vắng vẻ. “Người về, tiếng rao không còn.” Cảnh chợ tàn phơi bày cảnh nghèo nàn, tồi tàn của đời sống đô thị và vùng quê.

                            Chiếc máy ảnh cần mẫn của người viết lướt nhanh khắp các ngõ xóm: trên đất chỉ còn lại “rác, bưởi, da thị, lá nhãn, lá mía”. Khung cảnh này còn được miêu tả bằng khứu giác tinh tế của nhà văn: “Mùi ẩm thấp bốc lên, cái nóng ban ngày và mùi bụi đất quen thuộc, gợi nhớ vùng đất này, cái mùi riêng của xứ sở này”. “Hai Bức tranh ám ảnh về thị trấn nhỏ trong “A Child” chính là vì màu sắc và mùi vị này.

                            Trong khung cảnh đìu hiu, hoang vắng, hình ảnh những con người phố huyện nghèo khổ, lười biếng, luộm thuộm dần hiện ra. Những đứa trẻ đi nhặt những thứ bị rơi ở chợ. Hai mẹ con đặt lên chiếc giường nhỏ, nhóm lửa dọn dẹp đồ đạc: “Hôm ấy mẹ đi mò cua bắt tôm, tối con mới dọn quán…”.

                            Gia đình Xâm ngồi trên chiếc chiếu, trước mặt có một chậu thiếc”. Cậu bé bò xuống đất nhặt rác bên vệ đường. Từ khi cả nhà rời Hà Nội về quê, hai người hai chị em cùng mẹ dọn dẹp vì thầy mất việc mở tiệm tạp hóa nhỏ.

                            Bà già khùng loạng choạng bước vào bóng tối vừa mua rượu vừa uống vừa cười “khách khanh”. Họ đều là những mảnh đời khốn khổ, lầm than, điêu tàn. Trong mắt Liên Bảo Bảo, cả cuộc đời chìm trong bóng tối mênh mông, chỉ có chiếc đèn bàn của chị, chiếc bếp lò của chú, chiếc đèn bàn của người Mỹ… chỉ là những đốm sáng le lói, những đốm lửa nhỏ ấy không làm phố huyện bừng sáng mà chỉ làm màn đêm thêm u tối. và dày đặc.

                            “Mọi con đường trong huyện giờ thu nhỏ lại chỗ gánh nước của chị tôi”. Ngọn đèn nhỏ trên gánh nước của chị soi sáng cả vùng huyện nhỏ bé ấy chỉ dăm bảy lần, một hình ảnh ám ảnh và rất gợi về một kiếp người nhỏ bé, xiêu vẹo. Bóng tối trong đêm dài bất tận của cuộc đời.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 2

                            Thạch Lâm vốn tên là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi tên là Nguyễn Tường Lân, là em của hai nhà văn nổi tiếng Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long). Sinh ra ở Cẩm giang_huyện Hải Dương (quê mẹ), học phổ thông ở Hà Nội trước khi bỏ học để làm báo và viết lách. Tác phẩm của ông không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm đều có giá trị riêng. Ông được thế giới ca ngợi là “nhà văn có tài viết truyện ngắn”. Điển hình là tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”. Sự độc đáo và duy nhất của măng đá là đơn giản, rõ ràng và sâu sắc.

                            Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tưởng chừng như vô thưởng vô phạt ngoài cách miêu tả ngoại cảnh và khung cảnh của các nhân vật, nhưng lại đi vào chiều sâu của tâm hồn mới lớn, tạo nên những điều tinh tế khơi gợi lòng trắc ẩn với cuộc sống, sự đồng cảm với người nghèo và sự trân trọng đối với họ mơ ước. Câu chuyện kể về hai nhân vật chính Liên và An, hai chị em từng sống ở Hà Nội ồn ào, sau khi bố mất việc, cả gia đình phải chuyển đến một thị trấn nhỏ ở khu nghèo để mưu sinh. hai đứa con được giao cho mẹ chăm sóc. Cửa hàng tạp hóa nhỏ để kiếm thêm thu nhập. Cứ mỗi khoảng thời gian từ chiều đến đêm khuya, mọi cảnh vật, nhân vật nơi đây đều được ghi lại một cách tinh tế bằng cách nhìn và cảm nhận.

                            Phong cảnh bên ngoài được Qingshi miêu tả qua đôi mắt của Lian, đôi khi quan sát mọi thứ từ xa, và đôi khi quan sát cận cảnh từng chi tiết. Cảnh quan thiên nhiên được cảm nhận cả về không gian và thời gian. Lúc đầu là hoàng hôn chiều tà, màn đêm dần dần bao phủ. Một cảnh tiêu điều, chợ chết chứng tỏ sự sống đang lụi tàn. Bức tranh thiên nhiên buổi chiều cuộn lại bắt đầu bằng “tiếng trống canh đình làng” – tiếng trống đầu tiên báo hiệu ngày đã hết và chuẩn bị bước vào đêm. Nói là phố huyện nhưng là huyện cay bé nhỏ. Hiệu lệnh phát ra từ một túp lều nhỏ trong rừng trúc đầu làng, lúc này bầu trời phía tây đỏ như than hồng và tối sầm lại, xen lẫn với tiếng ếch nhái ngoài đồng kêu vo vo, tiếng muỗi vo ve bên trong. đêm. tối. Điều này khiến Lian, một cô gái có tâm hồn nhạy cảm, ngồi cạnh “những viên sơn đen, đôi mắt đầy bóng tối”, “bỗng thấy nỗi buồn tận cùng thấm vào tâm hồn”. Câu thơ mở đầu của Thạch Lam mượt mà, dịu dàng, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, tinh tế như một bản tình ca, gợi lên một cuộc sống thôn quê vừa thanh bình vừa hoang vắng, nghèo khó. Hiện ra trong xóm là những đứa trẻ nghèo lom khom nhặt nhạnh những gì còn dùng được sau buổi chợ trưa, và cách dùng từ “co ro” của Thạch Lam càng thêm màu mè. Những đứa trẻ vui vẻ nên được học và có là nỗi đau. Hai mẹ con vẫn dắt tay nhau ngày qua ngày làm hai công việc thường xuyên: ban ngày mò cua bắt tôm, ban đêm đợi dưới gốc cây bàng hái chè. Hai chị em được liên kết với một cửa hàng tạp hóa bán nữ trang. Ống kính quan sát của người viết quét đến rác dưới đất, vỏ bưởi, vỏ cây, lá mía, lá nhãn, mùi bụi và ẩm mốc quyện vào nhau, tạo thành mùi của đồng quê. . Tâm hồn của Thạch Lâm rất tinh tế, có thể cảm nhận từng chi tiết đều thể hiện tấm lòng bao dung của ông với đất nước.

                            Hình ảnh những ngôi nhà sáng đèn trong một thị trấn nhỏ vào ban đêm, nhưng những nguồn sáng yếu ớt đó không thể xua tan màn đêm và không thể đánh bại bóng tối. Đèn phở nhà tôi, đèn Mỹ nhà cuu chập chờn, đèn dây xanh sáng của nhà khách làm cho “phố phường dần chìm trong bóng tối”. Bóng tối xung quanh dần bao trùm. “Cả con đường tối om, từ chợ rau về nhà, đến các con ngõ trong làng còn tối hơn.” Người đầu bếp phở lom khom nhóm lửa trong đêm khiến “bóng anh đổ thêm một vùng và kéo đến khoảng cách”. Gia đình bác Xẩm vẫn chờ giọt hạnh phúc rơi xuống với cái bát rỗng, đứa con trai đang bò lê dưới đất. Lian An thu dọn hành lý, lắng nghe âm thanh “ngàn sao vẫn lấp lánh, đom đóm bám trên lá, đèn xanh nhỏ lấp lánh, hoa bàng rơi” để tâm hồn thư thái. Nhẹ nhàng xen kẽ dọc vai, đôi khi từng người một. Tâm trí luôn tĩnh lặng, với một cảm giác mơ hồ không thể giải thích rõ ràng. Không khó để hiểu tâm trạng của một cô gái nhạy cảm như thế, sao có thể chạnh lòng trước cảnh hiu quạnh. Những nhũ đá thật tinh tế khi khám phá thế giới nội tâm của cô gái.

                            Chuyến tàu đêm là ước mơ và hy vọng của những người dân nghèo nơi đây. Ai cũng thức khuya đợi chuyến tàu vụt qua đời mình. Có lẽ mong bán được vài món hàng, nhưng chị em tôi không muốn nữa, vì đã khuya rồi, có mua cũng chỉ là bao diêm hay bao thuốc. Nhưng như Thạch Lam nhận xét: “Có biết bao người trong đêm tối mong ánh sáng giữa cuộc đời nghèo khó.” Chuyến tàu đêm là một giấc mơ đẹp đẽ và đáng trân trọng của những người dân vùng nghèo khó. Mọi người hồi hộp đợi tàu, mong An có thể nằm xuống ngủ nhưng họ vẫn nhắc cô “tàu đến rồi, đánh thức em dậy”, còn những đôi mắt ngái ngủ vẫn cố thức để nhìn tàu. Tàu đi qua. Đoàn tàu đến mang theo tiếng còi rộn rã, tiếng tàu chạy ầm ầm, tiếng nói chuyện của hành khách phá vỡ không gian yên tĩnh, ảm đạm nơi đây. Đoàn tàu đến mang theo một thứ ánh sáng thần tiên lạ lùng, khác hẳn với những ánh đèn chập chờn của sự sống đang lụi tàn, đó là “làn khói trắng xa xăm”, là “toa tàu sáng rực ánh đèn”. thế giới. “Trên đường đi, những tác phẩm điêu khắc bằng đồng nhấp nháy và những ô cửa kính sáng choang xua đi màn đêm và cho họ niềm tin và hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Dù chỉ là trong giây lát nhưng chuyến tàu đêm có ý nghĩa rất lớn đối với chị em. Đối với họ, Đây là một niềm đam mê, bởi nó không chỉ xuyên qua cuộc sống tầm thường và nhàm chán nơi thành phố, mà còn gợi lại những ngày xưa khi bố cô còn thất nghiệp và cả gia đình sống ở thành phố Hà Nội ồn ào và náo nhiệt. hai đứa trẻ sống trong Live and play mỗi ngày tươi đẹp.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 3

                            Nếu các nhà văn tự lực cánh sinh miêu tả cuộc sống bằng tất cả những gì tốt đẹp nhất, trong sáng nhất của nó, thì Thạch Lam có cách của mình. Trong mắt anh, cuộc sống không chỉ là tình yêu mãnh liệt đến mức quên cả thế giới và mọi người, mà còn có cả nỗi đau. Ngòi bút hòa vào cuộc sống, nhào vào những ngóc ngách của tâm tư con người và chắt lọc ra bức tranh cuộc sống ở một vùng nghèo khó (hai đứa trẻ) nơi bóng tối bao trùm lấy cuộc sống. Con người cực đoan, ác độc.

                            Cảnh sinh hoạt cộng đoàn bắt đầu từ lúc hoàng hôn và kết thúc bằng cảnh chị em tôi cùng mọi người đợi tàu. Toàn bộ bức tranh tối đen như mực, bóng tối lan tỏa bao trùm cả khung cảnh tạo nên một không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một màu xám và đen. Bóng tối của rừng trúc, bóng tối của góc quán, bóng tối của những con đom đóm lập lòe. Mọi thứ, mọi thứ chìm trong bóng tối. Trong cộng đồng ban đầu không giàu có, cuộc sống của người dân bị bao trùm trong màn đêm, bị áp bức và ngày càng trở nên cô đơn và hoang vắng. Đâu đó, vài đứa trẻ nhặt chúng ở một góc chợ vắng trong đêm. Hai chị em đi chơi ở cùng một tiệm cắt tóc đã vắng khách. Quán bún chả của bạn siêu âm thầm.. Những hình ảnh hiu quạnh, đơn chiếc và vài ngọn đèn nhỏ nhoi không đủ xua đi bóng tối dày đặc, bao trùm đang dần đè nặng lên cuộc đời của họ – không biết bao nhiêu con người. “Nhiều”, “Nhiều người”. Bóng tối và các đồng minh của nó cai trị sự im lặng của cõi người. Thời gian bỗng trở nên im lặng, ai oán lạ lùng. Không gian ngột ngạt của kiếp người. Bức ảnh ấy gợi lên biết bao nỗi buồn.

                            Nhưng măng đá – người nghệ sĩ tâm hồn ấy không chỉ dừng lại ở việc vẽ bóng tối. Bóng tối đáng sợ, nhưng cuộc sống xung quanh thậm chí còn đáng sợ hơn. Họ đều là những người nghèo ở đây. Đây là một gia đình anh chị em phải lên thị trấn vì nghèo. Đó là bà già điên: đó là gia đình bác Xẩm; đó là gánh hàng của chị tôi; đó là quán phở của bạn. . . Những người dân nghèo nơi phố huyện không ồn ào cũng đủ để quây quần bên nhau. Một sự buồn tẻ khủng khiếp bắt đầu. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: không cần ngoảnh lại, hai chị em cũng biết tiếng cười sau lưng khách là của bà cụ, khi thấy ánh sáng xanh hiện ra đằng xa, các chị cũng biết đó là gánh phở của siêu.

                            Trong nhiều năm, nhiều tháng, họ cứ lặp đi lặp lại cùng một việc. Một công việc nhàm chán cũng nhàm chán như cuộc sống của chính bạn. Những biến cố ấy khiến cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, tuyệt vọng và họ không biết đi về đâu. Đối với họ, dường như không có tương lai, chỉ có một thực tế đáng buồn, vô vọng. Trước mắt họ, cánh cửa tương lai đã đóng lại. Họ không mong ước gì và không chờ đợi ai. Hiện tại chỉ có nghèo đói, khó khăn, tù túng và công việc nhàm chán. Bức tranh ấy gợi nỗi đau trong tâm hồn người đọc, những tiếng kêu uất ức không lời giải đáp.

                            Mọi hành động, sự việc và cuộc sống của người dân vùng nghèo đều lặp đi lặp lại và nhàm chán. Chỉ có chuyến tàu cứ lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu này là hiện thân của hy vọng, là hiện thân của tương lai của mọi người. Họ đến chờ đợi con tàu không chỉ để buôn bán mà còn mong đợi một điều gì đó khác lạ trong cuộc sống vốn đã đơn điệu xung quanh họ. Tiếng máy tàu gầm rú phá tan bầu không khí vốn đã nặng nề u sầu, ánh sáng rực rỡ chói lọi xé tan màn đêm, lại chìm vào bóng tối như cũ. Với các chị, con đò còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng của Hà Nội phồn hoa đô hội, là chút mới lạ của hiện tại và ước mơ của tương lai. Hình ảnh con tàu đi qua làm dịu đi những bế tắc của cuộc đời và để lại sau lưng một ước mơ – một ước mơ rất tội nghiệp của tất cả mọi người.

                            Nếu các nhà văn của nhóm văn học tự lực đã tách rời thực tế và thi vị hóa cuộc sống, thì Lin Zelin mặc dù là thành viên chủ chốt của nhóm văn học đó, nhưng tác phẩm của ông đã gần gũi với cuộc sống. Nếu các đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu trong sự say đắm, tình yêu trong nỗi đau, tình yêu trong sự hỗn độn (Hồn bướm, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại nói đến tình người. Văn học oải hương đi vào nơi sâu thẳm nhất của lòng người, thức tỉnh con người với nỗi đau. Ngòi bút thạch anh tím vừa lãng mạn vừa hiện thực, viết nên cuộc đời của những con người nghèo khổ, những nỗi đau thầm lặng, nhẹ nhàng, không thể quên khi trang sách khép lại. Không phải nụ cười thấu tim của Nguyễn Công Hoan, không phải nỗi đau thấu tim của nam cao, mà những chương văn nhẹ nhàng, tinh tế mà sâu sắc của Thạch Lâm đã lột tả hết những điều đó. Việc miêu tả xã hội Việt Nam đông đúc, ngột ngạt lúc bấy giờ mang đến cho người đọc một cảm nhận đầy nhân văn.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 4

                            Đã có một thời, “tư duy từ điển” lấn át bao người nghiên cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến bước loay hoay trong khái niệm “rổ rá”. Dựa trên quan niệm này, văn học được nghiên cứu với tư cách là một thực thể, được phân chia một cách siêu hình thành những dòng và khuynh hướng khác nhau. Lấy tiêu chuẩn của chủ nghĩa hiện thực phê phán để chỉ văn học 1930 và 1945, không khó để thấy rằng các tác phẩm của Ngô Đạt Tư, Nguyễn Công Hoan và những người khác đều thuộc chủ nghĩa lãng mạn (chủ nghĩa lãng mạn của một quốc gia bi thảm là không thể tha thứ!). luôn khách quan, “Tư duy mới” đã từ bỏ hướng duy lý chủ quan nên tuy chậm nhưng cũng chưa muộn, những năm gần đây Lâm Trạch Lâm và một số “cây bút nổi tiếng” của thời đại văn học đang được khẳng định lại.

                            Đọc Thạch Lam, ta càng thấy ông thực sự là một nhà văn tài hoa, một nhà văn mà vốn kiến ​​thức Tây học phong phú không thể nhấn chìm một tâm hồn “thuần Việt”. Tác phẩm của ông là một trái tim nhạy cảm dưới vẻ bề ngoài chất phác, một nhân cách văn hóa, một người bạn của tầng lớp nghèo khó cùng thời. Các truyện ngắn “Gia đình hoa lê”, “Hai đứa trẻ”, “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… của Thạch Lam chỉ khác nhau ở giọng điệu tiêu biểu, độc đáo của tác giả và điểm chung duy nhất của chúng là một sự nhân hậu. của sự cảm thông và bao dung.

                            Khi nghiên cứu khu dân cư Việt Nam, chúng ta thường tập trung vào hai khu vực cơ bản là đô thị và nông thôn, mà ít chú ý đến những khu dân cư tồn tại ở “ranh giới mờ” của lối ra vào. Đời và làng là phố huyện. Các tuyến phố cộng đồng có thể coi là trạm trung chuyển giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp sống và hai nếp sống xã hội cơ bản đã để lại dấu ấn rõ nét trong sinh hoạt chung của cộng đồng. Vào thời Talim (bây giờ), văn minh đô thị chưa phải là đại diện của xã hội, nhưng các làng và quận mới là bộ mặt thực sự của xã hội.

                            Đi qua bất kỳ thị trấn hay khu vực nào, có thể xác định những đặc điểm cơ bản của cấu trúc địa phương, lối sống, đặc điểm kinh tế của nó, v.v. Rộng hơn, có thể hiểu những đặc điểm lớn của xã hội, bởi hàng nghìn năm qua, “nền văn hóa lúa nước” đã tạo nên xã hội truyền thống của Việt Nam, bên cạnh những thuận lợi, nó cũng buộc nó vận hành trong vòng luẩn quẩn và trì trệ. . Từ lâu, nhiều người đã nhận ra rằng truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã đạt được sự đồng tình về mặt phong cách. Thế nên không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lâm chọn phố huyện để nhìn nhận cái buồn tẻ của một bộ phận lớn nhất trong xã hội bấy giờ – người nghèo.

                            “Tiếng trống canh trong túp lều tranh nhỏ nối tiếp nhau vang lên gọi chiều Tây đỏ như lửa, mây hồng như than hồng đốt lò Một hàng tre những ngôi làng trước làng biến thành màu đen, rõ ràng Xé toạc bầu trời.

                            Chiều, trời đã về chiều. Một buổi chiều yên ả, như một lời ru, gió thổi vi vu, tiếng ếch kêu ngoài đồng. Đó cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra nhiều đêm trước: chị em ngồi trước cửa chờ trời đất, nhân hòa; mẹ con cô hàng nước dọn bàn nước ngầm. ; Thắp lửa lên; nhà tôi chờ khách đến nghe… “. Còn biết bao người trong bóng tối, bao ngày nghèo mong ánh sáng”… Thực ra, nhịp sống không nhất thiết chỉ có những ngày hạnh phúc. Một xã hội dù tươi đẹp đến đâu cũng có mùa hè ảm đạm, mùa thu mưa và mùa đông ảm đạm, đó là những điều bất thường của tự nhiên. Và đêm cô đơn được Thạch Lam tái hiện là một đêm buồn, số nhiều: “từ khi quán mở hàng đêm nào tôi cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây nhìn bóng tối phố phường chung quanh.”, “cô không” Cô chẳng kiếm được bao nhiêu, chiều nào cũng cuốc bộ từ sáng đến tối”… Hình thức số nhiều của hành động chỉ sự lặp đi lặp lại nhàm chán của cuộc sống thị thành, nhàm chán nhưng vẫn lặp đi lặp lại. Vì miếng cơm manh áo: “Trời ơi , sớm muộn gì cũng sẽ Chẳng còn gì để mất”. “Cũng như đêm nào thôi, thôi mong người đến mua”, một cách kiếm sống, giả vờ là chính mình.

                            Tác giả đồng ý với Lian và những người xung quanh cô đến từng chi tiết, từ sự rộng lớn của không gian đến những vật nhỏ bé chìm trong bóng tối: “Những con phố, những ngõ rộng dần phủ đầy bóng tối”, “Cả bầu trời tối đen Đường đã sâu, sông đã sâu, đường ruộng rau về nhà, ngõ làng càng tối”, “đêm còn đó, quê tối, vắng lặng phía xa”. Trời tối đến nỗi cả thị trấn “thu nhỏ lại”. Vài ngọn đèn le lói qua tấm mành tre, ngọn đèn nhỏ của cô Shuipu, bếp lò của tiệm phở trở nên khủng khiếp trong bóng tối, và cả âm thanh cũng chìm trong đó: “Tiếng đàn pípa nảy lên. Trong im lặng.” “Tiếng trống trong phố huyện ngân lên một hồi ngắn gọn, vang vọng không xa rồi chìm vào bóng đêm” “Tiếng tàu vốn đã rất nhỏ, nhỏ dần trong bóng đêm”. Bóng tối át đi những tiếng nói rất gợi mà cũng rất thật, như sự dao động tâm trạng của nhân vật: “Đêm tối quen thuộc”, “Tâm hồn bình yên, với những cảm giác mơ hồ không hiểu”, “Ta tìm bản thân tôi đang sống giữa biết bao điều xa lạ”. Trạng thái tâm trí thờ ơ là trạng thái trong đó cả một nhóm tham gia vào các cuộc trò chuyện rời rạc, rời rạc, các câu hỏi quen thuộc và các câu trả lời quen thuộc. Điều đó có nghĩa là mọi người đều mệt mỏi, thất vọng và không chắc chắn.

                            Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, âm thanh và tĩnh lặng mang đến cho người ta cảm giác nặng nề, phụ nữ thường xuyên “mắt mờ”, “muốn thức khuya”, “vì muốn xem tàu”. Mỗi tối vào lúc chín giờ, đoàn tàu chạy qua những con đường vắng như một ngôi sao băng. Con tàu đến và đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua các thị trấn trong khu vực chìm trong bóng tối. Nó tỏa sáng. Nó gây được tiếng vang. Đó sẽ là xa. Đây là một giấc mơ kỳ diệu. Như thể nó không phải là sự thật. Những chuyến tàu đi qua chỉ biết an ủi những con người khốn khó đang lâm cảnh nghèo khó. Nhưng đó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu tạm kết thúc một ngày sống cộng đồng, làm tăng thêm sự hồi hộp chờ đợi ngày hôm sau.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 5

                            Thạch lam thực sự mất khoảng 6 năm để tạo ra và mất ở tuổi 32. Tuy nhiên, ông đã có những đóng góp tích cực cho nền văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện đại hóa, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.

                            Nói đến truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam không thể không nhắc đến tác phẩm Hai đứa trẻ (Ra vườn nắng. Nxb. Ngày nay, 1938). Câu chuyện của hai đứa trẻ gói gọn tấm lòng “êm dịu và sâu lắng” của Salin đối với mọi người. Lao động lam lũ, lang thang trong xã hội cũ, đượm nỗi nhớ quê hương da diết.

                            Hai đứa trẻ có những đặc điểm rất tiêu biểu trong phong cách truyện ngắn thạch nhũ: yếu tố lãng mạn xen lẫn yếu tố hiện thực, truyện không có truyện, thơ tứ tuyệt… tất cả đều có thể thể hiện tâm trạng hai chị em đang suy tư, trăn trở và khắc khoải. Vào một đêm hè tĩnh lặng, trong không khí thê lương của thị trấn nghèo này, lòng khắc khoải chờ đợi chuyến tàu đêm vụt qua.

                            Khi đọc câu chuyện của hai đứa trẻ, ấn tượng đầu tiên là cuộc sống của những người vô gia cư trong xã hội cũ bẩn thỉu, chật chội, không ánh sáng, không tương lai.

                            Câu chuyện mở đầu bằng âm thanh và hình ảnh, báo hiệu một ngày sắp tàn “Tiếng trống canh trong chòi nhỏ chiều từng hồi Gió tây đỏ như lửa, mây muôn màu đều như “than sắp tàn”. Thế nên: ngày vinh quang đã tàn, hoàng hôn sắp tàn. Giờ chợ đã tan. Niềm vui lạc lối bỏ lại. Trống vắng và quạnh hiu” Chợ họp giữa chiều đường phố đã biến mất từ ​​​​lâu. Người đã đi, tiếng đã tàn”, chỉ còn lác đác vài đứa trẻ tội nghiệp cúi xuống nhặt nhạnh những thứ còn dùng được của người bán hàng rong, tất cả gợi lên “cái “buồn” của buổi chiều thôn quê”.

                            Bên cạnh tầm nhìn về sự diệt vong là cuộc sống của người chết. Quán của tôi gần như vắng khách, dù chiều nào tôi cũng kiếm được bao nhiêu từ tối đến sáng. “Chú Thâm đang ngồi trên chiếc chiếu có chậu sắt trước mặt, kể những câu chuyện bằng tiếng đàn piano đáng thương. Âm thầm bật máy.” “Thằng bé bò dưới đất (…) nhặt rác bẩn vùi trong cát bên vệ đường”. Bà cụ hơi điên, một người say rượu, và một trong số họ đã cười xấu xa sau khi uống rượu. Chị Liên đã cạn rượu, “anh đi bóng tối”. Hai chị em phải thức trắng đêm, “trông quán tạp hóa nhỏ, rời Hà Nội về quê sống từ khi gia đình chuyển đi, do cô giáo mất. Công việc””. Bán hàng ế ẩm”, xót xa cho những đứa trẻ tội nghiệp, nhưng “không có tiền cho họ” . Cảnh xếp hàng vào thùng, cách hai chị em đếm tiền, tiếc nuối những đêm ra Hà Nội “uống hai cốc nước lạnh xanh đỏ”, tưởng phở bác siêu là thứ quà xa xỉ mà chị em không bao giờ mua được. mua… hãy tưởng tượng. Do gia cảnh và mức sống eo hẹp, nhưng có lẽ dù sao thì Lianjia vẫn tốt hơn nhà dì Sham, bởi vì còn có “gian hàng nhỏ cho bà già thuê…” Mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có cùng một sự nhàm chán và nhàm chán…

                            Hôm đó, khi trời tối hẳn, cả thị trấn như được bao phủ bởi ánh đèn của cô Chị. “Bóng tối kéo dài và phẫn nộ trong cuộc sống nông thôn” (Globetrotter) có mọi thứ trừ chiếc đèn này. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả nhắc đi nhắc lại chi tiết những chiếc đèn lồng của bà. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh ấn tượng cuối cùng của cô bé khi chìm vào giấc ngủ vẫn là “ngọn đèn nhỏ của bà, soi sáng mặt đất nhỏ”. Phải chăng hình ảnh này là biểu tượng cho cuộc sống của những người bần cùng, sống trong cảnh bần hàn, trong bóng tối của xã hội cũ?

                            Nhịp sống ở quận này lặp đi lặp lại một cách đơn điệu. Ngày qua ngày, chiều nào chị cũng “gánh hàng từ sáng đến tối”, bác Phò đốt lửa, nhà bác chờ khách, nhà dư nên bác đi nhắc người ta gõ cửa. tổ tôm. Hai chị em nhận tiền rồi ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây “Chiều nào mẹ cũng ghé cửa hàng thăm con”…

                            Cứ thế, “bao nhiêu người bị giam giữ trong bóng tối”, ngày qua ngày, trong “ao đời thường”, sống sót. Hình ảnh những con người này làm chúng tôi nhớ đến mấy câu trong bài thơ Bay lơ lửng của Huyền:

                            Chỉ là một vài tư thế, cùng một số khuôn mặt qua lại. Vì nó rất gần nên nó rất vui, có rất nhiều thứ…

                            Tuy nhiên, họ vẫn nuôi một niềm hy vọng mơ hồ, “mong ánh sáng soi rọi cuộc đời nghèo khổ của họ. Chính sự mong chờ mơ hồ ấy đã khoét sâu thêm hoàn cảnh éo le của các nhân vật trong truyện. Họ sống ở đó, nhưng họ thì không. biết ngày mai số phận ra sao!.

                            Phân tích cảnh cuối trời, cuối chợ và cuộc sống của những người chết ở trên giúp ta hiểu vì sao ta luôn cố thức trắng đêm chờ đoàn tàu đi qua. Hai chị em đợi tàu về bán hàng à? Tôi không muốn ai quay lại và mua nó. Hơn nữa, vào ban đêm, họ chỉ mua diêm hoặc bao thuốc lá. Hơn nữa, cô ấy “ngủ cả mắt” nhưng cô ấy vẫn không chịu ngủ. ) mí mắt sắp sụp rồi” và dặn chị nhớ dậy khi tàu chạy qua. Hai chị em cố thức chỉ “vì muốn xem tàu, và đó là hoạt động cuối cùng của đêm”. bởi vì một chiếc thuyền không chỉ là một chiếc thuyền. Đó là một thế giới khác. “Một thế giới khác với lie, với ánh sáng của ngọn đèn chị tôi và ánh lửa của chú tôi”. Với chị, đoàn tàu tượng trưng cho cuộc sống sung túc, sung túc, dễ dàng và nó gợi cho chị em nhớ lại những ngày xưa hạnh phúc khi thầy cô chưa thất nghiệp.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 6

                            Hai đứa trẻ, viết năm 1938, là một tác phẩm bằng thạch cao, chắt lọc từ ánh sáng mặt trời thu được trong vườn. Tác phẩm kể về cảnh sinh hoạt của người dân trong thị trấn từ chiều đến đêm khuya. Tác giả đi sâu vào tình cảm của từng nhân vật, cũng như cuộc sống và hy vọng của họ.

                            Bố cục mở đầu bằng tiếng trống hồi trống báo hiệu mặt trời đã về chiều. Ở nông thôn Việt Nam, những bức tranh thiên nhiên rất thơ mộng, trữ tình và đậm chất cổ tích. Trong con mắt của tác giả, mặt trời lúc này như một hòn than sắp tắt, không còn đóng vai trò soi sáng không gian nữa. Buổi chiều thật yên tĩnh, “gió thoảng đưa tiếng ếch nhái ngoài đồng. Trong quán hơi tối, muỗi bắt đầu vo ve” Thị trấn yên tĩnh, tiếng muỗi và tiếng ếch nhái có thể kêu được nghe từ xa.

                            Phân tích tác phẩm của hai em, có thể thấy những bức tranh đẹp về thiên nhiên Việt Nam lúc hoàng hôn. Tuy nhiên, những tiếng nói trên không tạo thêm hứng khởi cho những làng quê nghèo khó, còn tẻ nhạt. Những âm thanh nho nhỏ làm nổi bật không gian tĩnh mịch, đơn điệu nơi đây. Bức tranh thiên nhiên cuộn bút măng đá xanh trong buổi chiều nhạt nhòa, rã rời, mờ ảo. Vì thế, dưới ánh hoàng hôn hoang vắng, vắng vẻ, người dân nơi đây không khỏi vui vẻ. Buổi chiều, chợ tan mà không có tiếng chen lấn, chuyện trò của ai. Tiếng trống dứt, không gian càng thêm vắng lặng đến rợn người.

                            Buổi chiều sinh hoạt của người dân trong cộng đồng không mấy sôi nổi. “Lâu lắm rồi chợ mới họp ở trung tâm thành phố. Mọi người ra về hết, tiếng ồn ào cũng lắng xuống. Chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ thương, lá nhãn, bã mía” sau một ngày hoạt động , mọi thứ Chỉ còn lại rác rưởi. Ngày tháng trôi qua, khu chợ tiêu điều, người dân nơi đây sống trong cảnh nghèo khó. Họ không có công việc nào kiếm được nhiều tiền để đổi đời, quầy hàng buôn bán ế ẩm. Chiều trở lại phố huyện, vắng lặng đến lạ lùng, nhưng lại có vẻ quen thuộc.

                            Tuy nhiên, khi những đứa trẻ không thể tự làm việc để kiếm cái ăn thì chợ cũng kết thúc. Chúng “ngồi xổm trên mặt đất và tìm kiếm. Chúng nhặt những thanh tre, que củi hoặc bất cứ thứ gì người bán hàng rong bỏ lại. Chỉ là một đứa trẻ, nhưng chúng phải học cách sinh tồn, ăn uống và nhặt nhạnh bất cứ thứ gì chúng có thể sử dụng được.

                            Qua việc phân tích tác phẩm “Hai đứa trẻ” ta thấy rõ hoàn cảnh khốn cùng của người dân. Khi thị trấn hoàn toàn bị bao phủ trong bóng tối. Đầu tiên là Lian, nhân vật là một cô gái tuổi teen. Cô ý thức rất rõ về cuộc sống hiện tại và đặc biệt nhạy cảm với mọi thứ xung quanh. Vào cuối ngày, cô ấy cảm thấy buồn. Tôi đã gắn bó với quê hương từ khi còn nhỏ, tôi đã quen thuộc với hơi thở của trái đất và hương vị của nơi này. Khi màn đêm buông xuống, anh nhanh chóng “thắp đèn, dựng những quả bóng sơn đen, đi tìm chốt khóa cửa lại”. Tiếp theo, cô ấy tổng kết doanh thu sau một ngày bán hàng. An là em gái của Lianlian, người luôn đồng hành và hỗ trợ Lianlian trong ngày.

                            Hình ảnh người chị “Ngày ấy chị đi mò cua bắt tôm, tối đến em ở dưới gốc sồi chùi cái hồ chứa nước cạnh khuôn gạch”. và gia đình. Tôi tập hát, mong người qua đường cho tôi chút lòng. Tuy nhiên, người dân ở đây quá nghèo để thưởng thức âm nhạc. Tiếp theo là chú Xie, chất đầy mì gạo, nhưng đối với Qu Zhen, đây là một “món quà xa xỉ với rất nhiều tiền”. Một bát phở đắt quá, họ không mua nổi, nghèo một cách đáng thương.

                            Tiếp đến là thị, một nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Anh ấy uống rất nhiều cả ngày, say đến mức lảo đảo và loạng choạng. Đó cũng là cách anh chọn để cuộc sống trở nên đặc biệt và bớt nhàm chán hơn. Mặc dù người dân ở đây rất khắc nghiệt, nhưng họ vẫn hoạt động suốt ngày đêm và sống một cuộc sống tốt đẹp mỗi ngày. Họ chưa tìm ra những cách mới để thay đổi cuộc sống của họ. Cuộc sống của người dân phố huyện hiện nay là những chuỗi ngày lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, họ luôn có ước mơ, hy vọng và làm việc chăm chỉ vì một tia hy vọng.

                            Chỉ qua phân tích tác phẩm “Đứa con thứ hai” ta mới thấy được tâm trạng của Liên và An khi đợi tàu. Chuyến tàu đêm khuya chạy qua thị trấn là chi tiết đắt giá nhất trong Hai đứa trẻ. Tuy nhiên, đoàn tàu chỉ đi qua, không dừng lại và không đưa ra bất kỳ chất nào. Nhưng đối với linh hồn của hai đứa trẻ Lian và An, nó có một ý nghĩa đặc biệt. Lúc đầu, Liên và An đợi tàu vì mẹ bảo làm vậy để bán hàng. Tuy nhiên, hai chị em luôn vội vàng và lý do chính để đợi tàu là vì tàu mang đến cho họ thứ mà Quzhen không có.

                            Phần lớn, cả thị trấn đều thức và cố ngủ cho đến khi tàu đến và đi qua. Họ chờ tàu không phải vì bán hàng kiếm tiền hay để nhận được gì đó, mà vì họ có thể nhìn thấy một tia sáng le lói giữa thành phố nhộn nhịp. Vì vậy, An Hách Liên mặc dù buồn ngủ nhưng vẫn cố gắng tỉnh táo, An còn nói: “Tàu sắp đến, xin anh đánh thức tôi dậy.” Không chỉ Lian, An cũng muốn đổi đời.

                            Sau khi đợi tàu rất lâu, tàu đến và báo hiệu cho cô ấy rõ ràng. “Len cũng nhìn thấy một ngọn lửa xanh, bập bùng trên mặt đất, như một bóng ma. Rồi đâu đó tiếng còi tàu rú lên, kéo dài trong gió về phía xa trong đêm khuya. Đánh thức tôi dậy”. Tàu chỉ đến và “đi qua” trong chốc lát nên cần hết sức chú ý quan sát. Đánh thức tôi dậy và cho tôi thấy khoảnh khắc quý giá khi tàu đến.

                            Tàu đang đến, tiếng còi, tiếng người trên tàu nói cười, tiếng va chạm vào đường ray, ánh đèn trong toa. Không khí vui tươi, sôi nổi chỉ có thể bắt gặp trên những chuyến xe điện khác hẳn với không gian tĩnh lặng của phố huyện. Ánh sáng và âm thanh đến và đi vội vã, chờ đợi suốt ngày. Khi đoàn tàu chạy qua, Lian An và An không ngừng nghĩ về nó cho đến khi họ khuất sau rừng trúc. Lúc này tâm trạng bỗng nặng trĩu, buồn bã. Đoàn tàu là hình ảnh đại diện cho ước mơ đổi đời và hoài bão đổi đời của những người dân vùng nghèo khó.

                            Bằng cách phân tích bức ảnh chụp một thị trấn nhỏ ở một khu vực nghèo mà hai đứa trẻ đã nhìn thấy. Tác giả đi sâu vào tâm lý nhân vật, từng chi tiết và làm nổi bật nét độc đáo của mỗi người. Qua công việc, chúng tôi thấy rằng con người cần có ước mơ và động lực để tốt lên mỗi ngày.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 7

                            Hai mươi năm đã trôi qua, bạn đọc vẫn không quên một bóng dáng khiêm nhường, khiêm tốn và rất nhân hậu, bước chân nhẹ nhàng vào làng văn học hiện đại Việt Nam, mang theo những trang thơ say đắm. . như Nguyễn Tuấn đã nói “sáng tạo của thạch lam mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thơm mát”. Không chỉ bắt gặp những cảm xúc ấy trong “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu xuân” hay “Người nạn nhân”, “Hai đứa trẻ” một lần nữa đưa chúng ta vào thế giới của trẻ thơ đầy cảm xúc. ,buồn.

                            Đến với “Đứa con thứ hai”, trước hết chúng ta cảm nhận được bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người trong cộng đồng qua con mắt sắc sảo của cô gái nhân vật chính trong truyện. Một bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hai từ “mượt” và “buồn”. Xa xa văng vẳng tiếng trống đánh, tiếng ếch kêu gợi sự tĩnh lặng của thôn quê, tiếng muỗi vo ve đậm chất bần hàn. Không gian được chia cắt bởi “đỏ lửa” phía tây, “ánh hồng” của mây, và “bóng tối” của lũy tre làng. Một chút bình yên và tĩnh lặng, nhưng cũng có một chút hoang vắng và buồn bã, nó đưa ta vào một không gian nửa lạ, nửa quen, nửa mục đồng, nửa tỉnh táo và nhẹ nhàng cuốn theo những cảm xúc.

                            Các huyện, thị phát triển theo không gian của một chợ chết: “Người về, tiếng đã về, dưới đất chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ thương, lá nhãn, lá mía”. Không còn là “chợ cá làng chài”, chợ chiều thưa thớt người, không còn cảnh xô bồ càng làm nổi bật sự tàn tạ.

                            Nằm trong khung cảnh chiều tàn, chợ tàn, là những mảnh đời đang hấp hối của con người. Không phải nông dân bị thuế cao rượt đuổi, tiền giỏi như ở ngô kỹ, Nan Cao. Không phải quan lại Tây học, cô gái nông thôn sống thoải mái trong sương khói lam chiều, thích công việc của nhất linh và hoàng đạo. Số phận của những con người mà Lin Zelin quan tâm là những mảnh đời nhỏ bé vô danh, sống chết trong một xã hội đen tối và vô danh.

                            Thạch Lam viết ra tất cả bằng tất cả nỗi nhớ phảng phất qua sự “chân thành” của mình. Họ là những đứa trẻ nghèo “chồm hổm” chợ rau nhặt măng thừa, là hai mẹ con trong quán hàng bán không bao nhiêu nhưng đêm nào cũng sạch bóng, là những bà già tranh nhau tiếng nói. Cười toe toét khi anh bước đi. Trong bóng tối, anh là một chú siêu, gánh phở, ít người vào ăn, nhà anh xẩm, đêm đêm có tiếng đàn tỳ bà run rẩy. Họ đều là những con người nhỏ bé đang hàng ngày trì trệ trên “Pingtang of life”. Viết về cuộc đời của những người vô danh, Thạch Lam bày tỏ niềm trăn trở sâu sắc đối với cuộc đời của hai đứa trẻ. Lian và An phải lo cho cuộc sống gia đình ở độ tuổi trung niên đầy ngây thơ của họ. Hai chị em giúp mẹ coi cửa hàng trong căn lều nhỏ do bà cụ thuê, ngăn cách bằng tấm phên tre đan giấy. Thức ăn chỉ là một vài viên sơn đen hoặc bánh xà phòng. Nỗi đau khổ qua đi, nhưng điều khiến chúng tôi đau lòng hơn là đời sống tinh thần của hai em dường như đang dần dậm chân tại chỗ. Họ phải tự nhốt mình trong không gian tăm tối của thị trấn nhỏ mỗi ngày, thề với tuổi trẻ rằng có thể sẽ không bao giờ biết đến thế giới xa xôi bên ngoài.

                            Nhưng là một người “yêu đời và tôn trọng cuộc sống”, Stagmite sẽ không bao giờ dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống, cho dù nó có thực đến đâu. Cố gắng khám phá và thấu hiểu những viên ngọc tiềm ẩn trong mỗi người, để đào sâu “vẻ đẹp bất ngờ”, đó là điều mà Stalagmite luôn mong muốn thực hiện. Có người cho rằng, thạch lam ra đời là để dung hòa hai khuynh hướng sáng tạo, có lẽ thể hiện rõ nhất ở vẻ đẹp tâm hồn đầy cảm hứng lãng mạn của nhà văn. Ở thị trấn nhỏ nghèo khó, những cảm xúc nhạy cảm mà cô gái nhỏ hồn nhiên biết rung động vẫn được khơi dậy. Tôi nghe tiếng chiều rơi mà lòng nhủ thầm “Chiều rồi, chiều rồi. Đêm êm như lời ru” nơi nàng tìm thấy bình yên và cảm thấy cả lòng mình “trước giờ tàn của ngày buồn”. . Nghe mùi ẩm mốc từ nền chợ mà cứ ngỡ là “mùi đất, mùi nhà”. Trong cuộc đời đang tàn, mấy ai cảm nhận được làn gió gợn mát lòng từ “đêm hè nhung nhớ”, mấy ai để tâm đến hoa bàng khẽ rơi trên vai? Tuy nhiên, lời chứng của một tâm hồn trẻ thơ lại gợi lên tất cả những cảm xúc ấy: cả sự rung động trước vẻ đẹp dịu dàng, lẫn nỗi buồn thoáng qua trước sự tĩnh lặng.

                            Không chỉ có tâm hồn nhạy bén mà còn có tấm lòng nhân ái sâu sắc, có sự đồng cảm nồng nhiệt với những mảnh đời bé nhỏ xung quanh mình. Cuộc sống cũng chẳng hơn gì họ, nhưng không vì thế mà tắt đi sự đồng cảm với đứa con tội nghiệp, hay ít quan tâm đến hai mẹ con. Cô cũng không ngại rót ly rượu cho bà cụ và làm ngơ trước gánh phở siêu siêu của gia đình bác Xẩm. Phải chăng chính sự cảm thông, yêu thương mà anh gián tiếp gửi gắm qua nhân vật là sự cảm hóa, bao dung của anh dành cho những người xung quanh?

                            Kính trọng, yêu thương và luôn tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ khác những khát vọng thường trực đến một cách tự nhiên trong cuộc sống bế tắc của chúng. Thạch Lam đã tự nghĩ trong suốt cuộc đời mình: “Suy cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ một đằng, người khổ một nẻo. Bí quyết là biết tìm niềm vui trong khổ đau.” Hai đứa trẻ bơi ngược dòng, tôi tìm lại thời vui của mình, về xưa chơi Hà Nội, uống nước lạnh xanh đỏ thời Hà Nội vui. Hay ngước nhìn bầu trời đầy sao, tìm dải ngân hà, đuổi theo những chú vịt lùn, đó là lúc họ để lòng mình lặng đi vì những giấc mơ. Nhưng có lẽ ước nguyện trọn vẹn nhất, ước mơ trọn vẹn nhất đã đặt cả hai đứa trẻ lên tàu. Không chỉ hai chị em mà “rất nhiều người trong bóng tối đang mong chờ một điều gì đó tươi sáng hơn cho những mảnh đời tội nghiệp của họ”, có lẽ đoàn tàu chính là thứ ánh sáng mạnh mẽ nhất.

                            Chuyến tàu cuối cùng trong ngày, trong mắt những người bình thường và cư dân trong huyện, là động lực để họ bám trụ với cuộc sống như vậy. Đoàn tàu xuất hiện, bắt đầu bằng cảnh Superman hét lên: “Có ánh sáng ngoài kia”. Chuyến tàu mang theo ánh sáng rực rỡ và âm thanh rộn ràng, không tù đọng như không gian của Quzhen, không nhấp nháy như ánh sáng của Cô Chị hay ngọn lửa của Siêu Nhân. Những người phụ nữ cứ chờ tàu, không phải để bán vài thứ, mà để chìm đắm trong cảm xúc mạnh mẽ nhất về một “Hà Nội xa, Hà Nội sáng, vui, ồn ào”. Hà Nội năm ấy đầy ắp những kỷ niệm đẹp, ngày ấy gia đình cũng tương đối khá giả, trong mắt hai đứa, Hà Nội là nơi đẹp vô biên, vui vô cùng.

                            Chính vì thế, chuyến tàu như một tia sáng đưa hai chị em về quá khứ, nhưng cũng như một tia sáng soi rọi tương lai. Nhưng xét ở một góc độ nào đó, chính chuyến tàu lại tô đậm sự bế tắc của đời sống nông dân, khi niềm vui lớn nhất trong ngày của họ là chờ đợi chuyến tàu, và không còn cách nào khác ngoài thoát ra ngoài? khí ứ đọng ôm không ngừng. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm một thông điệp: cần phải thay đổi xã hội, để những con người vô danh này không sống vô ích.

                            Phân tích bài Hai đứa trẻ – Văn mẫu 8

                            Thạch Lam được nhắc đến là đại văn hào của dòng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Các tác phẩm của anh chủ yếu sử dụng những cảm xúc mong manh và mơ hồ trong thế giới nội tâm của nhân vật. Nhà văn Nguyễn Duẩn đã từng nhận xét về thạch lam: “Tình cảm của nhà văn thạch lam thường xuất phát từ tình cảm chân thật của ông đối với những con người ở tầng lớp nghèo. Thạch lam là nhà văn luôn trân trọng cuộc sống và trân trọng cuộc sống của những người xung quanh mình. Truyện ngắn” Hai đứa trẻ” là ví dụ tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

                            Xem Thêm : Phần mềm word là gì? Những tính năng cơ bản bạn cần biết

                            “Hai đứa trẻ” nằm trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Nhân vật chính của tác phẩm là hai chị em Lian và An. Do gia đình có những thay đổi, hai em theo mẹ về quê mẹ ở một vùng nghèo khó. Mỗi ngày, hai chị em Lian và An xách vài gói thuốc lá và vài miếng xà phòng để quản lý một cửa hàng nhỏ… chờ đoàn tàu chạy ngang qua khu dân cư. Trong mắt Lian Chunzhen, cuộc sống trong cộng đồng hiện lên chân thực và sống động. Đó là một màu u tối trong những không gian chật hẹp, chật chội với những con người chậm chạp, thiếu sức sống, tội nghiệp. Truyện ngắn thể hiện sự đồng cảm chân thành của Thạch Lâm với những mảnh đời nghèo khuất trong bóng tối, trên đường phố, vùng sâu vùng xa trước cách mạng và sự trân trọng trước những mong ước nhỏ bé, bình dị. Nhưng sự nghiêm túc của họ.

                            Như tôi đã nói, lên phim truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là cảnh kết thúc, kết thúc kiếp người. Mở đầu truyện, điều chạm đến cảm giác của người đọc là một khung cảnh tối tăm, u ám và hoang vắng. Tác phẩm mô tả một khoảng thời gian ngắn, và mọi thứ diễn ra vào buổi tối. Cảnh mặt trời lặn, trước hết, trong con mắt của người họa sĩ, vẫn phảng phất một cảm giác thẩm mỹ vô cùng thanh bình và bình dị. “Phía tây đỏ như lửa cháy, mây đỏ như than tàn Hàng tre làng trước mặt đã đen nhánh, soi rõ bầu trời. tiếng ru, âm vang Gió hiu hiu tiếng ếch đồng kêu.” Tuy bức tranh đẹp nhưng đằng sau đó là nỗi buồn mà người nghệ sĩ cố tình che giấu bằng những gam màu rực rỡ. Có người nhận xét rằng văn chương vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Bởi ẩn sau những lớp chữ, những gì mà màu xanh ngọc truyền tải là cuộc sống tăm tối và mệt mỏi bủa vây con người.

                            Nơi hai chị em sống là một thị trấn ổ chuột, thực chất là một khu chợ lán nhỏ. “Chợ họp ở trung tâm thành phố đã lâu. Mọi người ra về hết, tiếng ồn ào cũng lắng xuống. Trên đất chỉ còn lại rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, bã mía. Mùi ẩm mốc bốc lên nồng nặc, cái nóng ban ngày và cái mùi khói bụi quen thuộc, gợi nhớ đất, cái mùi riêng của xứ người này, chỉ cần nhìn những gì còn sót lại trong chợ cũng đủ thấy cuộc sống nơi đây khốn khó như thế nào. Khuya nói chuyện với nhau, như để cho qua cuộc đời tẻ nhạt của nhau, Những đứa trẻ nghèo sống bằng những đồng phế liệu chợ quê nghèo, chúng ngồi xổm dưới đất tìm kiếm. Họ nhặt những thanh tre hoặc bất cứ thứ gì mà những người bán hàng rong bỏ lại. “Đó là sự đau khổ tột cùng. Dường như ai cũng phấn đấu cho cuộc sống và hy vọng, nhưng nỗ lực thì quá nhiều và hy vọng thì quá mong manh.

                            Trong bối cảnh phố huyện đổ nát, hiu quạnh, nổi bật lên là hình ảnh cuộc sống của những con người chết chóc, lang thang, bị mắc kẹt không lối thoát. Đó là vợ chồng người chú, cùng với tiếng đàn tỳ bà buồn bã, trên chiếc chiếu rách nát, và đứa con trai bò ra đất bên ngoài chiếc chiếu, vừa chơi vừa nhặt rác bẩn. Đó là hai mẹ con ngày ngày mò cua bắt ốc, tối về lại dọn quán cóc ven đường “Làm không bao nhiêu, chiều nào cũng dọn hàng, từ chập tối đến tối mịt”. Đó là một siêu phở đầy ắp hàng hóa, một món quà xa xỉ dành cho dân phố thị, một bà già điên khùng say xỉn, một đứa con nhà nghèo, và chính hai chị em… Áo và nước mắt, người trộn lẫn trong bóng tối, như trôi theo dòng thời gian vụn vỡ, những bóng hình mong manh trong Đối với người dân trong vùng, cuộc sống đều đặn, đơn điệu, lặp đi lặp lại và nhàm chán. Cả hai đều mong chờ những điều mới mẻ sẽ được thổi vào cuộc sống của mình.

                            Âm thanh, ánh sáng và con người trong tranh của Ou tưởng chừng lạc lõng nhưng lại cộng hưởng trong một hệ thống u sầu, suy tư và buồn bã. Điểm cộng của cuộc sống là ngọn đèn dầu và cái lem nhem, kỷ niệm cái nghèo đến khốn cùng.

                            Những cảnh khải huyền được mô tả là kỳ lạ, tràn ngập sự sống của người chết. Hơn nữa, khi Lan Shi vẽ cảnh đường phố vào ban đêm, sự buồn tẻ và bóng tối dường như tăng lên gấp nhiều lần. Từ “bóng tối” xuất hiện hơn 20 lần trong các tác phẩm. “Ngõ phố tối dần”, “Trời tối, con đường ra sông, qua chợ rau về nhà, ngõ làng tối dần”, “Đêm trong thành phố”, im lặng và đầy bóng tối. Bóng tối bao trùm vạn vật và tràn ngập trong các tác phẩm tạo nên một bức tranh u tối, không gian tù đọng, ngột ngạt. Bóng tối được miêu tả ở nhiều trạng thái khác nhau xuyên suốt bố cục từ đầu đến cuối. Gợi mở cho người đọc một cuộc sống bế tắc, nhất là của những người dân vùng ven và nhân dân nói chung trước Cách mạng tháng Tám. Nó còn tượng trưng cho tâm trạng tuyệt vọng, cuộc sống u uất.

                            Không chỉ không gian, cảnh vật mà cả cuộc sống của cư dân trong quần thể cũng chìm trong bóng tối. Họ làm việc và kiếm sống trong bóng tối. Tối hai mẹ con dọn cơm nước. Vào ban đêm, Super Phoenix xuất hiện. Tối đến, gia đình anh hát xẩm để ăn. Khi màn đêm buông xuống, bà lão khùng đến mua rượu uống rồi “bước vào màn đêm”. Buổi tối, tôi ngồi thẫn thờ ngắm nhìn thị trấn và đợi chuyến tàu. Cuộc sống đơn điệu và nhàm chán, những hành động quen thuộc và những suy nghĩ mong chờ vẫn như ngày nào. Họ mong được “đem lại ánh sáng cho những mảnh đời nghèo khó”.

                            Trong bóng tối đen kịt, hình ảnh ngọn đèn dầu được đưa lên hơn chục lần, gieo vào lòng người một niềm hy vọng mơ hồ một màu xanh xanh. Đó là “chiếc đèn đung đưa trên chòi của em gái”, “đèn còn, ngọn đèn nhỏ dần, thưa thớt, ngọn đèn xuyên qua ngọn tre”. Không có gì đủ sáng để phá vỡ màn đêm, nhưng thay vào đó, nó làm cho nó lớn hơn, một kỷ niệm của sự suy tàn, cô đơn và buồn bã. Mặt khác, ngọn đèn dầu còn là biểu tượng của cuộc đời nhỏ nhoi, vô nghĩa, vụn vỡ. Sống trong bóng tối mênh mông của xã hội cũ và loay hoay, không có hạnh phúc, không có tương lai, cuộc đời như cát bụi. Gánh nặng cuộc sống ngày càng đè nặng lên vai mọi người trong huyện. Bức tranh tối tăm. Những hạt sáng của ngọn đèn dầu như những lỗ thủng trên màn đen, càng làm cho nó thêm thê lương, tăm tối.

                            Trong toàn bộ tác phẩm, nhân vật mà Thạch Lam chú ý nhất là nhân vật Liên. Lian tuy chỉ là một cô gái trẻ nhưng suy nghĩ và tình cảm của cô ấy rất trong sáng và đẹp đẽ, đáng được trân trọng. Tại đây, đối diện với cảnh tối tăm, chật chội của phố huyện, tâm trạng của Liên Chân cũng trở nên buồn bã, trầm tư. Hãy luôn hồi tưởng về những khoảng thời gian tươi đẹp ở Hà Nội, “một nơi rực rỡ và lấp lánh”. Thuở ấy, “mẹ tôi thường trả rất nhiều tiền để ra hồ uống nước lạnh trong những chiếc ly xanh đỏ”. Điều này rất khác với cuộc sống tối tăm, tù túng ở Quzhen. Tuy nhiên, với cuộc sống hiện tại, mặc dù tâm trạng của Lian En rất buồn, nhưng nó rất quen thuộc và tốt bụng. Không ghét bỏ hay từ chối cuộc sống như bây giờ. Lian và Lian lặng lẽ ngắm sao, lặng lẽ quan sát những gì xảy ra trong huyện và thị trấn, đồng cảm với nhau và chia sẻ bóng tối của họ với những mảnh đời nhỏ bé đang sống trong cảnh nghèo khó, nghèo khổ và bóng tối tù đọng.

                            Một chút ánh sáng từ ngọn đèn có thể không đủ để xua đi bóng tối, u ám và những khúc quanh của cuộc đời. Tuy nhiên, Jasper đã không dập tắt niềm hy vọng của những linh hồn tội nghiệp đó. Anh mang đến cho họ niềm vui, niềm hy vọng lớn hơn, dù chỉ trong chốc lát, một chuyến tàu đêm rực sáng. Chuyến tàu đêm chạy qua khu vực này là niềm vui duy nhất trong ngày của các nữ tu và cư dân trong khu vực. Nó mang đến một thế giới khác: ánh đèn lạ lẫm, giọng nói phấn khích, khách khứa ồn ào… đối lập hoàn toàn với nhịp sống buồn tẻ của khu phố. Chuyến tàu từ Hà Nội trở về đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ của hai chị em, mang theo chiếc đèn lồng như con thoi trong đêm tối, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan ánh đèn mờ trên phố phường. Chờ tàu đã trở thành nhu cầu hàng ngày của chị em như cơm ăn, nước uống. Chờ tàu không ngoài mục đích tầm thường là chờ khách mua hàng, mà còn nhiều mục đích khác. Lian hy vọng sẽ nhìn thấy một cuộc sống khác với hai chị em. Con tàu mang theo những kỷ niệm và đánh thức những kỷ niệm vui vẻ, viên mãn của thời chị em cô đã sống. Chuyến tàu cũng giúp ta thấy rõ hơn cuộc sống tù đọng phủ bóng tối hèn mọn, thảm hại của sự tồn tại của mình. Có thể nói Lian là một người chu đáo, hiếu thảo và dũng cảm. Nỗi buồn và bóng tối tràn ngập trong mắt cô, nhưng trong tâm hồn cô vẫn có chỗ cho một điều ước, một sự chờ đợi trong đêm. Cô ấy là người duy nhất trong khu vực này biết giấc mơ có ý thức của cuộc sống. Cô ấy mệt mỏi vì chờ đợi.

                            Trong tác phẩm, hình ảnh chuyến tàu đêm là một biểu tượng giàu ý nghĩa. Nó đại diện cho một thế giới đáng sống với sự phong phú và huy hoàng. Nó hoàn toàn trái ngược với cuộc sống lười biếng, nghèo nàn, tối tăm và lang thang của người dân thành thị và các vùng miền. Thông qua liên tâm trạng tác giả muốn lay chuyển những con người tẻ nhạt đang sống quanh mình và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đây chính là giá trị nhân văn của truyện ngắn này. Ngoài ra, đoàn tàu còn là biểu tượng của cuộc sống hiện đại sôi động, thịnh vượng và thú vị. Dù chỉ trong chốc lát, cả thị trấn như được giải thoát khỏi cuộc sống tù đọng, ẩn khuất, bế tắc.

                            Thành công của tác phẩm này, bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, còn không thể tách rời tài năng nghệ thuật của ông. Cốt truyện đơn giản và điểm nhấn là dòng cảm xúc, cảm xúc, sự mong manh, mơ hồ trong tâm hồn các nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, người đọc hoàn toàn có thể nhận thấy truyện hầu như không có cốt truyện, mà đầy ắp những cung bậc cảm xúc, những tình tiết, sự việc nhỏ được chắp nối với nhau qua suy nghĩ, tình cảm giữa các nhân vật. Lối viết tương phản cũng được coi là thành công của Thạch Lam trong nghệ thuật kể chuyện. Đó là sự đối lập giữa bóng tối dày đặc với những ngọn đèn dầu leo ​​lét, đối lập giữa cuộc sống buồn tẻ của người dân trong xóm với cuộc sống ồn ào, sôi động trên chuyến tàu đêm. Thông qua sự tương phản này, thạch lam nhằm nhấn mạnh và làm nổi bật cuộc sống tăm tối, tù túng và vô vọng của cư dân vùng này. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra khả năng miêu tả sinh động những chuyển biến tinh tế của khung cảnh từ tối sang sáng và nhân vật, đặc biệt là cảm xúc của nhân vật. Đó có thể là nỗi buồn, có thể là sự đồng cảm, có thể là sự nuối tiếc… tất cả đều tinh tế và phù hợp với câu chuyện. Ngoài ra, có thể kể đến một hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, biểu tượng, hàm súc, đầy chất trữ tình sâu lắng. Tất cả những điều đó góp phần tạo nên chất văn của Thạch Lam, độc đáo và hấp dẫn.

                            Phân tích hai đứa trẻ

                            Phân tích 2 em – mẫu 1

                            Hai đứa trẻ là truyện ngắn của tác giả Thạch Lam được viết vào năm 1937 và 1938 vào một trong những thời kỳ đen tối nhất của xã hội Việt Nam. Đây là một truyện kiểu thạch lam, tình tiết không có twist đặc sắc nhưng đọc xong luôn đọng lại trong lòng người ta. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện một bức tranh sinh động về cuộc sống trong nhà xe về đêm, qua đó tác giả gửi gắm tình cảm của mình trước những cảnh đời khác nhau.

                            Tác phẩm của hai đứa trẻ bắt đầu bằng cảnh hoàng hôn trên Phố Huyện. Trong văn học cổ, khi miêu tả cảnh chiều tà thường có cảnh chim về tổ, trốn nhà, mặt trời lặn… Ở Hai đứa trẻ, ta không thấy cảnh đó, nhưng cảnh chiều vẫn đượm màu. Với nỗi buồn, trong nỗi buồn của tác giả, ta còn tìm thấy vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ ở miền quê “Miền tây đỏ như lửa, mây đỏ như than tàn…” Buổi chiều, buổi chiều, buổi chiều êm đềm như lời ru, vang theo gió Thổi theo tiếng ếch nhái ngoài đồng”.

                            Cùng với ánh tà dương buông xuống là cảnh tan chợ, hàng loạt bức ảnh cho thấy sự nghèo khó nơi đây: “Chợ đầu ngõ đã vắng từ lâu, người về, người hối hả đã tiêu tan” và biến mất trên mặt đất. Chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía. Một mùi ẩm thấp bốc lên, cái nóng ban ngày lẫn với mùi bụi quen thuộc, gợi cho người đàn bà cái mùi đặc biệt của đất, của đất. nhà này. Cảnh cuối chợ nối tiếp là cảnh tối thui. Mọi thứ tối đen như mực dưới mắt Lian. Lava miêu tả bóng tối như ma thuật. Tác giả nhắc đến bóng tối tới 30 lần. Bóng tối đến từ mọi hướng: từ những đám mây đang lùi dần, từ những rặng tre đen sì, từ những con muỗi vo ve trong góc phố, từ những chú ếch nhái ngoài đồng, rồi bao trùm khắp các con đường và ngõ hẻm: “Bóng tối”. đường…, ngõ làng càng tối”

                            Qua cách miêu tả này, người đọc sẽ cảm thấy bóng tối là một thứ rất đáng sợ, giống như một mối đe dọa. Nó vặn vẹo khắp nơi, nó xuyên qua cảnh quan. Nó treo lơ lửng và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt của khu vực nghèo khó này.

                            Trong truyện còn có chi tiết tia sáng chỉ le lói xung quanh, yếu ớt không đủ để xua tan bóng tối, nhưng lại khiến bóng tối có cảm giác dữ dội hơn. Vào mỗi buổi tối, những hình vẽ bắt đầu xuất hiện, khiến người đọc liên tưởng đến những chú chim ăn đêm. Mặt khác, ta cũng liên tưởng ngay đến cuộc sống tăm tối trong đêm tối của chế độ thực dân phong kiến.

                            Tả từng khuôn mặt, ai cũng có cuộc sống riêng: Cô Chị xuất hiện trong bóng tối. Sau những ngày mò cua bắt tôm vất vả, dù biết chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng thu dọn. Trong phòng ăn của chị, ngọn đèn leo lét chỉ soi sáng một khoảng nhỏ, gợi cho ta liên tưởng đến cuộc sống trong ngục tù, rùng rợn

                            Khi chú Phó xuất hiện với đốm lửa nhỏ, chập chờn trong đêm tối, chập chờn như một bóng ma. Từ lúc chuyển đến lúc về ở chưa bán lấy tiền. Bà lão điên bước ra khỏi bóng tối với một nụ cười. Sau khi nhấp một ngụm rượu, tiếng cười của ông lão lại chìm vào bóng tối. Có một sự thương hại u sầu bí ẩn đối với nhân vật này.

                            Nhưng đáng nhớ nhất là hình ảnh người chú, người cô được tác giả nhắc đến ba lần. Chúng nổi lên với tiếng quả bầu run rẩy trong bóng tối, rồi cùng đứa bé bò trên cát trong bóng tối, và khi về đến khuya, chúng ngủ quên trên chiếu.

                            Sau khi miêu tả từng gương mặt, tác giả kết luận “biết bao người trong bóng tối mong ánh sáng để thoát khỏi cảnh bần cùng hàng ngày”. Có thể thấy tác giả đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối, và chính ông cũng nuôi hy vọng đổi đời.

                            Phân tích 2 em – mẫu 2

                            Thạch Lam – nhà văn tiêu biểu của dòng văn học lãng mạn. Tuy nhiên, chất lãng mạn trong tác phẩm của ông rất lạ và độc đáo: nó xuất phát từ hiện thực, tế nhị, nhẹ nhàng và ăn sâu vào lòng người. Đây là sự lãng mạn tích cực, lãng mạn đẹp đẽ. Một ví dụ là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trong cuốn sách “Nắng trong vườn”. Một câu chuyện cảm động về những đứa trẻ nghèo khổ ở khu ổ chuột, ca từ nhẹ nhàng, tinh tế thể hiện sự đồng cảm với những kỉ niệm, ước mơ giản dị mà cảm động của những đứa trẻ đường phố. vùng nghèo khó trước đây.

                            Câu chuyện về hai đứa trẻ được tác giả kể theo trình tự thời gian và không gian. Không gian đó được tô màu từ khi mặt trời bắt đầu lặn, rồi tối dần, và trình tự thời gian từ hoàng hôn đến chiều tối. Mở đầu truyện là khung cảnh thị trấn nhỏ lúc chiều tà, tác giả miêu tả bằng những câu văn với nhịp điệu chậm rãi, chậm rãi và những âm thanh, hình ảnh báo hiệu một ngày sắp tàn qua tiếng trống. Bức tranh: “Phía tây đỏ như lửa đốt, mây đỏ như than hồng, hàng tre làng trước ngõ đen kịt, nhìn thấu trời”. không gian tĩnh lặng đến nỗi xa xăm Tiếng ếch nhái kêu khắp nơi trên cánh đồng, trôi theo gió: cánh đồng gió thổi qua”. Cảnh phố huyện về chiều, dưới cái nhìn của hai người trẻ em, cũng được miêu tả cụ thể, sinh động, xúc động Đó là buổi chợ Cảnh vắng, khi buổi chợ đã tàn từ lâu “ai về nhà nấy, xô bồ đã về hết”, chẳng còn một bóng người. chợ tàn, cuộc sống nghèo nàn, tồi tàn nơi phố thị phần nào lộ ra, sau chợ, ai nấy đi hết, chỉ còn lại “rác, bưởi, vỏ trái, lá nhãn, lá mía” trên mặt đất. thời gian, cảnh hoàng hôn ở phố huyện còn được miêu tả bằng khứu giác tinh tế của nhà văn: “Mùi ẩm thấp bốc lên, ban ngày Mùi nắng bụi quen thuộc, gợi cho người đàn bà cái mùi của chính mình. quê hương”. Qua tất cả những âm thanh và hình ảnh trên đã vẽ nên bức tranh một miền quê nghèo, buồn mà thơ mộng.

                            Trời tối dần: “Trong cửa hàng của chị tôi, muỗi vo ve. Ngồi bên lớp sơn đen, Lian chợt thấy nỗi buồn của ngày sắp tàn dâng lên trong lòng, đôi mắt dần chìm trong bóng tối. Ánh sáng của mặt trời yếu dần và biến mất. Giờ đây, những loài động vật sống về đêm xuất hiện là những con muỗi bay vo ve. Khi màn đêm buông xuống, toàn bộ khung cảnh dần bao trùm trong một màu đen. Nó khiến cho khung cảnh đường phố trở nên u buồn và tăm tối. Cả con phố như bị bao phủ bởi một màu đen đen, và ánh sáng Chỉ ở một vài nơi, nhưng chúng chiếu sáng những khu vực hẹp một cách yếu ớt và lờ mờ, như ngọn đèn dầu trong các cửa hàng chị em, ánh sáng từ bếp lò di động. một đoàn tàu Khi đi qua cộng đồng, ánh sáng hắt ra từ toa tàu như là một thế giới khác, chỉ còn một vài đốm sáng nhỏ yếu ớt giữa không gian rộng lớn của phố huyện, gợi cho người ta nhớ về cái nghèo của phố huyện, đó là hơi buồn.

                            Những bức tranh về thị trấn còn được khắc họa sinh động qua cuộc sống đời thường của người dân thị trấn – người dân sống cuộc sống nghèo khổ, vất vả, lam lũ như: em bé nhặt rác, hai mẹ con, bác phở siêu, chú vợ chồng xam bà điên và nhân vật chính của truyện ngắn là hai chị em Liên và An. Sau khi chợ chiều tan, bóng tối không buông xuống nhưng cuộc đời đen tối lại hiện ra. Trước hết là những đứa trẻ nghèo ở ven chợ: “Vội nhặt tất cả những gì còn dùng được, cây tre, cây gậy tre và cái gì cũng dùng được”. Đó là cuộc sống khốn khổ của họ và những gì người ta vứt bỏ.

                            Sau đó là hai mẹ con chị, vào giờ này hai mẹ con chị khoác chiếc giường nhỏ gánh lửa đi dọn hàng, những thứ rất bình dị, bình dân như chè tươi, shisha, nên khách hàng của cô chỉ là đầu bếp, tài xế xe tải, bộ đội hay dân thường ở huyện. Trong nhà của giáo viên, chỉ có giáo viên Luke.

                            Cuộc sống vất vả là thế nhưng ít nhất mẹ con chị cũng có một chỗ bán đồ nghề cố định, dù chỉ có “chõng tre, vài chiếc chõng, vài cái chén” so với vợ, chồng chị vẫn thế. có vẻ may mắn hơn. Chú mù cùng vợ con bò trên cát, kiếm sống trên tấm đệm cũ nát và chậu rửa mặt hỏng. Cuộc sống hàng ngày của hai vợ chồng và những đứa con thơ của họ phụ thuộc vào lòng tốt và sự hào phóng của người khác. Họ ăn những gì họ được cho. Vì vậy, không có yêu cầu trong nhiều ngày, không ai tỏ ra thương xót, và nhiều thành viên trong gia đình tôi sắp chết đói.

                            Bên cạnh những nhân vật như mẹ con chị, vợ bác Xẩm và mấy đứa con bới rác măng đá, một nhân vật phác họa khác là bà Thi. Trải nghiệm cuộc sống bí ẩn của bà già, một bà già hơi điên. Kèm theo tiếng cười của khách quen, cô đến quán của chị gái, mua một chai rượu cút, nốc cạn, nốc đầy, rồi ngửa cổ uống cạn, loạng choạng bỏ đi, chui tọt vào bóng tối”, tiếng cười khanh khách. của khách hàng đang dần ít đi.”. Một nhân vật khác cũng được nhắc đến khi kể về cuộc sống của người dân trong vùng là chú phở siêu. Hình ảnh của bạn cho thấy một đống hàng kêu cọt kẹt với một bên là bếp than và một bên là bếp than.

                            thạch lâm đã thể hiện lòng trắc ẩn, nhân hậu và tấm lòng yêu thương đối với hai đứa trẻ là nhân vật Liên và bé An. Hai chị em từ Hà Nội lên quận sau khi bố mất việc. Mẹ Lian thuê một cửa hàng nhỏ bán báo vụn gần nhà ga, giao lại công việc cho hai chị em. Theo lời mẹ, hàng ngày cửa thường đóng rất muộn vì: “Mẹ bảo thức khuya đợi tàu chạy qua. Chắc trên tàu có người xuống mua hàng. Hai chị em ngồi trên chiếc giường nhỏ trước hiên nhà và chờ đợi.” Vì vậy, vào lúc hoàng hôn hàng ngày, họ sẽ cùng nhau ngồi trên giường và chờ đợi chuyến tàu đi qua. Nhìn ánh đèn tàu, hai chị em nhớ lại thời ở Hà Nội, khi gia đình sống ấm no, hạnh phúc. Lian và An là những cô gái trẻ phải sống trong một khu nghèo với những con người cần cù phải vật lộn hàng ngày, hàng giờ để kiếm sống qua ngày, đây là một bức tranh khắc họa chân thực về cuộc sống ở đất nước này. phố huyện. Nhưng bằng trái tim nhân hậu và tình yêu thương dạt dào, Thạch Lam đã thổi hồn sự lãng mạn, sức sống và hy vọng vào bức tranh qua hai nhân vật Liên và An. Một cách miêu tả tâm hồn hồn nhiên và mơ mộng của hai chị em khi đứng đợi chuyến tàu về. Họ không thể chờ đợi để ngồi trên cũi và chờ đoàn tàu đi qua. Trong suy nghĩ và tưởng tượng của hai chị em, cuộc sống trên tàu chắc vui lắm, hạnh phúc lắm, như ở một thế giới khác, khác với cuộc sống của hai chị em và những người trong xóm. tù túng, nhàm chán. Họ mơ ước, khao khát một ngày được đi tàu, đến một nơi hạnh phúc, uống dòng nước xanh đỏ mà họ hằng mơ ước. Vì vậy, hai chị em rất háo hức đợi tàu, rồi cứ thế đứng nhìn mãi cho đến khi tàu đi xa mới dọn hàng. Lúc này, trống canh cũng phát ra một tiếng ngắn ngủi, lập tức chìm vào trong bóng tối. Lúc này, quán cơm ở ga cũng vắng lặng, ngoài đường tối đen như mực. Sau khi đoàn tàu sáng rực đi qua là đêm tối, đêm quê, cánh đồng rộng và im lìm. Hai chị em cũng chìm vào giấc ngủ cô đơn và tăm tối, nhưng luôn hy vọng và mơ ước về một cuộc sống tươi sáng và tươi đẹp.

                            Phân tích 2 em – mẫu 3

                            Thạch Lam là cây bút giàu cảm xúc, ghi lại những cảm xúc của mình trước số phận éo le của những người nghèo khổ, sống vất vưởng, lặng lẽ chịu đựng và giàu lòng hy sinh. Nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm và cũng có điểm nhìn của tác giả.

                            Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong tập truyện ngắn đặc sắc của ông, chi tiết hình ảnh trong truyện như một dòng sông, cuốn ta vào đó và cảm nhận những gì đang diễn ra. Với câu chuyện của tác giả. Tất cả diễn ra thật dịu dàng nhưng cũng thấu hiểu sâu sắc tâm tư, tình cảm tác phẩm của mỗi người đọc.

                            Nhà văn là người nói lên hiện thực, đôi khi làm thơ những gì đang diễn ra xung quanh mình, từ những điều đơn giản nhất đến những điều con người nghĩ ra, thơ đóng một vai trò không thể thiếu. Với tài năng nhân ái, những tác phẩm của hai em mang đậm ý nghĩa nhân văn.

                            Những con người trong tác phẩm sống một cuộc đời cơ cực, bần cùng, túng quẫn và tuyệt vọng. Họ muốn sống một cuộc sống giàu có, dù họ không giàu thì làm sao để cuộc sống bớt khó khăn. Qua đó, thạch lâm cho chúng ta thấy được những vất vả mà người dân nơi đây phải chịu đựng. Các chi tiết trong tác phẩm tuy là miêu tả hiện thực nhưng cũng có những chi tiết sinh động, lãng mạn.

                            Mở đầu tác phẩm là hình ảnh buổi hoàng hôn, hình ảnh xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm là lúc buồn nhất. Những âm thanh quen thuộc, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve và khung cảnh xung quanh tác động đến tâm trạng của mọi người. Mở đầu tác phẩm là một buổi chiều tối, bầu trời giăng những đám mây hồng như nhuộm một màu đỏ hồng gợi cho người ta cảm giác buồn bã, cô đơn.

                            Thông qua miêu tả về ngày hấp hối của Thanh Thạch, phần nào giúp người đọc nhận ra đây là một buổi chiều buồn và lắng đọng. Thời gian bắt đầu dần chuyển mình về đêm, những bức ảnh về hoàng hôn và chợ đêm càng cho thấy sự nghèo nàn, hiu quạnh nơi đây.

                            Một người làm việc chăm chỉ luôn muốn làm cho cuộc sống của mình viên mãn hơn. Nhân vật trong “Đứa con thứ hai” không nhiều nhưng đều có những nét riêng, nổi bật là hình ảnh một cô gái, tuy còn nhỏ nhưng tâm hồn và suy nghĩ của cô rất thật, rất giống con gái.

                            Cuộc sống nơi đây tăm tối và buồn tẻ, họ sống trong buồn chán và tuyệt vọng, đối với họ cuộc đời ngắn ngủi, cuộc sống bình lặng, không biết ngày mai sẽ ra sao. không tí nào. Sau khi chợ trưa kết thúc, mọi người về nhà, tiếng ồn ào biến mất và sự im lặng của màn đêm bắt đầu. Rác rưởi, vỏ bưởi, hình ảnh lũ trẻ nhặt thức ăn thừa tất cả chỉ là những thanh tre…

                            Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống về đêm của thị trấn nghèo lại bắt đầu. Các nhân vật trong tác phẩm soạn hàng trên chiếc chõng tre, sáng hai mẹ con mò cua, chiều bắt ốc. Mở rộng thêm quán nước để kiếm thêm thu nhập. Quán phở cũng bắt đầu dọn, nhưng chú Xẩm và con trai không hát, không đánh đàn vì vẫn chưa có khách đến nghe.

                            Đứa trẻ nhoài người ra nghịch cát bên ngoài. Mọi thứ thật đơn điệu, không có lấy một chút hạnh phúc, có lẽ họ nghĩ và hy vọng rằng kiếm được nhiều tiền hơn trong một nhà hàng đắt tiền là một niềm vui, một niềm hạnh phúc, mang lại một cuộc sống viên mãn. Hình ảnh một ông già say khướt, lảo đảo, sống cuộc đời không tự chủ, phải chăng ông mong rượu sẽ quên hết những đau khổ và chìm vào trong đó để tìm thú vui của mình?

                            Người dân huyện này, họ sống, sinh ra và lớn lên ở đây. Đối với họ, bầu không khí là một sự im lặng, cô đơn và buồn chán. Nhưng với hai chị em, có lẽ họ chưa quen với sự buồn tẻ ở đây, và trước áp lực, người cha của hai chị em thất nghiệp phải lên thị trấn kiếm sống. Hai chị em phải nhận ra điều này và dần thích nghi với cuộc sống ở đây.

                            Hàng ngày thưa anh chị em, không chỉ em này mà hầu như ai trong thành phố và khu vực nào cũng mong chờ một việc rất quan trọng vào ban đêm. Không có gì khác ngoài ánh đèn và âm thanh của tàu hỏa. Ngọn đèn ấy cũng phần nào soi sáng phố huyện, làm cho khu phố sáng hơn một chút, không những thế, còn có tiếng nói chuyện của những người khách trên chuyến tàu, khiến không khí trở nên trầm lắng. Và không có đèn sáng như bình thường.

                            Âm thanh trên tàu nhắc hai chị em nhớ lại những ngày ở Hà Nội, hai chị em được đưa đi chơi, sống sung túc nơi thành phố tấp nập ngược xuôi, cụng ly xanh đỏ.

                            Bên cạnh đó, ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy cũng phần nào đánh thức cuộc sống của người dân phố huyện, họ dám mơ về một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Một cái gì đó thực sự tốt hơn và có ý nghĩa hơn, muốn, muốn, muốn. Đốt cháy bây giờ là một thực tế, không phải là một điều phù du để chờ đợi và chờ đợi.

                            Ước mơ của họ chỉ lóe lên khi đoàn tàu đi qua, đôi khi họ có ước mơ nhưng chỉ khi đoàn tàu đi qua họ mới cảm thấy điều ước của mình trở nên lấp lánh, hi vọng nhiều hơn là hi vọng. Hai Đứa Trẻ, một tác phẩm lãng mạn, cảm động và ý nghĩa. Những người sống trên đường phố luôn đáng thương, nhưng đầy khao khát và rực lửa trong cuộc sống của họ, nhưng thành thật mà nói, những gì được đo bằng sự khao khát rực lửa thực sự là mong manh và hư ảo.

                            Qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của thạch lâm cũng nói lên khát vọng sống lớn lao của một con người, một số phận nghèo khó, tuy vất vả nhưng vẫn mong vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Nhờ vậy mới thể hiện được tài năng của Salin, đặc biệt là tài miêu tả cảnh vật tinh tế và phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, khiến câu chuyện đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất.

                            Phân tích 2 em – mẫu 4

                            Phong trào văn học lãng mạn là một trong những trào lưu văn học lớn giai đoạn 1930-1945 với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng và Thạch Lam là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của phong trào này. bên cạnh đó. Trang viết đều tăm tắp, truyện không có cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, truyện ngắn của ông luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trong tuyển tập “Nắng trong vườn” là một tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông.

                            Toàn bộ tác phẩm được đặt dưới con mắt của một trong các nhân vật – một cô gái tuổi teen. Điều này không chỉ làm cho câu chuyện được khách quan hóa mà còn làm cho bức tranh phong cảnh đầy cảm xúc của các nhân vật trở nên sinh động và thêm nhiều màu sắc mới. Ngoài ra, tác phẩm được đặt trong bối cảnh không gian của những quận hạt nghèo khó trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là khoảng thời gian từ chập choạng tối cho đến đêm khuya, có ý nghĩa đặc biệt trong văn học. Để rồi, từ điểm nhìn chọn lọc, thời gian và không gian ấy mang đến cho người đọc một bức tranh sống động, khắc họa cảnh vật, nhân vật của thị trấn trong các thời kỳ khác nhau.

                            Bố cục bắt đầu bằng bức ảnh chụp một thị trấn trong vùng vào lúc hoàng hôn. Tác giả lần đầu tiên tả cảnh phố huyện lúc chiều tà trong bức tranh phong cảnh, đầy âm thanh và màu sắc. Âm thanh đầu tiên tác giả gợi lên trong câu mở đầu của tác phẩm là “tiếng trống dồn dập của các tòa tháp trong thành nối tiếp nhau như gọi hoàng hôn về”. Câu văn dài, chia làm nhiều vế dường như gợi bước chân của thời gian, tiếng trống chiều ấy như nhịp từng bước gọi từng bước cuối chiều. Đồng thời, tác giả miêu tả tiếng ếch nhái, tiếng muỗi bắt đầu vo ve – đều là những âm thanh quen thuộc, bình dị ở nông thôn Việt Nam. Sau đó, tranh phong cảnh cũng xuất hiện gam màu “đỏ như lửa” và “ánh hồng than tàn” ở phương Tây.

                            Qua đây có thể thấy tác giả đã gợi lên một bức tranh sông núi, bức tranh thiên nhiên phố huyện nên thơ, gần gũi, sinh động nhưng cũng phản ánh đâu đó sự đổ nát, vắng lặng. Nhà văn thạch lâm không chỉ dừng lại ở việc tái hiện những bức tranh phong cảnh mà còn miêu tả sinh động cuộc sống của người dân nơi đây qua những cảnh vật và những nhân vật ở cuối chợ. Chợ tan, người đã về, bây giờ ít người, đâu đó trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía… Ông vạch rõ ràng tất cả những chi tiết của phố thị cuối chợ, khung cảnh và cả trong cái nền chợ tự nhiên, thiếu sức sống, hình ảnh con người dần dần hiện lên. Đó là hình ảnh chú bé nghèo gác chợ “ngồi xổm dưới đất, vừa đi vừa ngó quanh, nhặt nhạnh tre, nứa, bất cứ thứ gì người bán rong dùng được”. Đó là hình ảnh cuộc sống tẻ nhạt của hai mẹ con, sáng mò cua bắt tôm, chiều gánh nước từ sáng đến tối, dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Đó là một bà già điên đang cười toe toét. Có lẽ nổi bật nhất trong số đó là hình ảnh của hai chị em Lian và Ann. Vì cha mất việc nên cả gia đình phải chuyển đến đây, mẹ giao cho anh phụ trách một chiếc vận tải thủy nhỏ.

                            Những cảnh dọn hàng, đếm hàng, đếm tiền tứ phía để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Lian giống như một người chủ gia đình thực thụ, một cô gái đảm đang và tháo vát, việc gì cũng làm được. Nhà văn Thạch Lam đã miêu tả chân thực cuộc sống của người dân vùng nghèo khổ, một cuộc sống vất vả, khó khăn và buồn tẻ. Để rồi trước khung cảnh ấy, một cô gái với tâm hồn nhạy cảm lại hiện ra, với quá nhiều cảm xúc. Đầu tiên, lien cảm thấy rất buồn vào cuối ngày – “Tôi không biết tại sao, nhưng tôi cảm thấy buồn”. Hơn nữa, cô cảm thấy “đau lòng khi nhìn thấy hình ảnh những đứa trẻ nghèo khó gần chợ mà bản thân không có tiền để cho chúng”. Có thể thấy từ những đặc điểm cảm xúc đó, cô ấy là một cô gái tinh tế, nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn. Đồng thời, thông qua nhân vật Lian, chúng ta có thể hiểu thêm về tấm lòng nhân ái của nhà văn Lin Zelin đối với những người dân vùng nghèo khó.

                            Không chỉ miêu tả thành công cảnh phố lúc chiều tà mà cảnh phố về đêm cũng được nhà văn Thạch Lam miêu tả một cách sinh động và đặc sắc. Những hình ảnh về cảnh đêm của cộng đồng ở khắp nơi trong bóng tối dày đặc đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nhà văn của thạch lam miêu tả bóng tối dày đặc bằng hàng loạt chi tiết, “đường phố ngõ xóm dần tối”, “xuống sông, đường qua chợ, về đến ngõ làng càng tối mịt”. tối hơn “Thậm chí còn tối hơn. “Có thể thấy, bóng tối đã xâm nhập và bủa vây cuộc sống của những con người trong cộng đồng. Đối lập với hình ảnh tối là hình ảnh sáng. Nếu bóng tối dày đặc và đen tối thì ngược lại với ánh sáng. Nó chỉ là một tia sáng nhỏ mờ nhạt, chỉ là “Hạt sáng”, “Vết sáng”, “Vết lửa vàng đi trong bóng tối”… Có thể thấy nhà văn Thạch Lam đã làm nổi bật nó một cách tinh tế giữa ánh sáng và bóng tối – một thủ pháp thường gặp trong văn học lãng mạn.Nhưng không chỉ hiện thực Ở một khía cạnh nào đó, hình ảnh bóng tối và ánh sáng còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những mảnh đời leo trèo, hấp hối của những người nghèo khổ trong đêm tối của xã hội. sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nhưng cũng tái hiện sâu sắc cuộc sống của con người trong đêm tối ấy. Một gia đình với chiếc siêu lẩu “sang chảnh” hàng ngày vắng vẻ. Trong đêm thanh tĩnh, có chiếu tre, niêu gang trắng , và gia đình người chú với tiếng đàn guitar. Cô em gái luộm thuộm lo gánh nước và cô em hàng ngày trông cửa hàng cho mẹ. Người dân nơi đây hàng ngày sống như vậy, bủa vây với biết bao công việc, trói buộc, không lối thoát Rồi trước cảnh phố thị về đêm, lại nghĩ về Hà Nội – nghĩ về quá khứ phồn hoa hạnh phúc “nghĩ mình đang ở Hà Nội Khi xưa… Hà Nội bao nhiêu đèn! “Lại khao khát đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội.

                            Cuối cùng, cảnh kết thúc là cảnh đợi tàu—một cảnh sáng sủa để lại nhiều điều mong muốn trong tâm trí người đọc. Mỗi tối, dù khuya đến đâu, người dân vùng nghèo vẫn vui vẻ chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua. Tuy không có câu nào miêu tả trực tiếp tâm trạng của người chờ tàu ở đây, nhưng qua lời nhắc nhở trước khi đi ngủ “Tàu đến rồi, đánh thức tôi dậy” và các chi tiết khác, tôi đã liên hệ được với người chờ tàu ngái ngủ là ai. vẫn cố thức, hay các chị khi tàu vào ga Những hồi chuông thể hiện rõ tâm trạng chờ đợi của các chị. Sở dĩ người dân vùng nghèo khổ luôn chờ đợi như vậy là vì chuyến tàu đi qua vùng đất nghèo khó mang đến “một thế giới khác” – một thế giới khác với thế giới của họ. Đoàn tàu đến mang theo âm thanh sôi nổi, ồn ào, náo nhiệt— “Còi tàu vẳng trong gió xa, lao xao, toa rít khói trắng”, “Tiếng hành khách khẽ thì thầm”, “Tiếng còi rít lên, đoàn tàu đang đến inh ỏi”… Đoàn tàu đi qua còn mang theo một loại ánh sáng khác, ánh sáng trắng, chiếu xuống mặt đất “Những toa tàu rực rỡ ánh sáng rực rỡ. “Rực rỡ, sáng cả phố, xe thượng lưu sang trọng, đồng niken lấp lánh, cửa kính sáng choang”… xua đi bóng đêm, bóng tối dày đặc. Có thể thấy, cảnh đoàn tàu là một chi tiết đặc sắc của tác phẩm, không chỉ có ý nghĩa hiện thực mà còn có ý nghĩa biểu tượng. Chuyến tàu đêm là hình ảnh tượng trưng cho một thế giới mới tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn và hơn thế nữa nó còn tượng trưng cho sự khát khao, khao khát thoát khỏi cuộc sống vòng xoay tù túng của những đứa trẻ thành thị.

                            Tóm lại, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Lìn Salin có giọng văn nhẹ nhàng, không có tình tiết trong truyện, nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật độc đáo thể hiện rõ sự đồng cảm của tác giả với cuộc đời. và số phận của người dân trong vùng. .Đồng thời cũng bày tỏ sự tôn trọng mong muốn thay đổi của họ.

                            Phân tích 2 em – mẫu 5

                            Trong nhóm Tự lực văn đoàn, Thạch Lâm Văn Đoàn sống ngắn nhất và viết ít nhất, nhưng tác phẩm của anh thì trường tồn cùng thời gian. Truyện ngắn của Thạch Lam dù có gian khổ đến đâu cũng không mất đi giá trị, được nhiều độc giả khám phá với sự nhiệt tình trân trọng. Hai đứa trẻ được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938), sức hấp dẫn của truyện không chỉ nằm ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế mà còn ở lòng nhân ái vô hạn chứa đựng trong giọng văn nhẹ nhàng, êm ái. , đặc biệt là ở ngòi bút khắc họa cảnh nghèo Hình ảnh và tâm trạng của phố huyện.

                            Những măng đá lấy chiều tà làm nền, lấy bóng tối làm màu chủ đạo, vẽ nên bức tranh phố huyện nghèo. Câu chuyện mở ra trong những giây phút hấp hối. Trong những túp lều tranh nơi thôn dã, chốc chốc lại vang lên tiếng trống, tiếng ếch kêu, tiếng muỗi vo ve, mỗi tiếng như nhỏ dần, yếu dần. Âm thanh còn sót lại của ngày tàn, gọi buổi chiều bằng nhịp chậm. Vẫn là nhịp sống trì trệ nơi đây nơi phố huyện.

                            Góc tiếng xa xa phía Tây đỏ lửa, cắt rõ từng đám mây hồng, hàng tre làng trên nền trời. Hình ảnh đó dường như báo trước sự sụp đổ của ngày tận thế sắp xảy ra. Nhịp điệu câu văn êm dịu chậm rãi, hình ảnh nhạc phong phú, uyển chuyển, tinh tế khắc họa bức tranh quê thân thuộc nhưng phảng phất nét buồn. Mỗi câu đều gợi ra cái hồn của cảnh vật, cái hồn của thiên nhiên, theo một phong cách giản dị, chiết trung.

                            Đặt nhân vật của anh ấy không chỉ trong một thời điểm nhất định mà còn trong một không gian nhất định. Đây là một không gian thị trường chết trong một thế giới bị lãng quên. Chỉ bằng vài nét phác, chợ chiều trông thật thê lương và thê lương: rác, vỏ bưởi, và chợ. Người bán hàng rong nán lại một lúc, trò chuyện rồi quay trở lại. Trên mặt đất, ánh sáng làm lấp lánh bãi cát, những viên đá sáng tối tạo thành một bức tranh tàn của chợ chiều.

                            Tất cả chìm vào bóng tối, tạo cho khu phố một cảm giác thờ ơ chưa từng thấy. Và rồi trong bối cảnh đó, những đứa trẻ hiện lên một cách khốn khổ. Đó là những đứa trẻ nghèo đi nhặt đồ thừa ở chợ rau còn dùng được. Họ nhặt những thanh tre.

                            Xin lỗi, hoàn cảnh của tôi cũng không khá hơn họ là mấy. Trước cảnh ấy, không hiểu sao “tôi lại thấy lòng bùi ngùi”. Có lẽ cuộc sống đã thay đổi cô từ một đứa trẻ vô tư thành một đứa trẻ biết suy nghĩ. Hai chị em đã ngồi trên chõng ngoài trời, nhìn đường phố chuẩn bị lên đèn.

                            Có thể nói, khung cảnh của dãy phố có phần nên thơ và đẹp như tranh vẽ, đó không chỉ là sự đơn sơ của cộng đồng mà còn là sự tiêu điều, vắng vẻ. Nó gợi lên sự ngưng trệ của cuộc sống trong những hình ảnh buồn tẻ, thê lương, nơi mà sự sống dường như đang suy tàn khi chiều buông.

                            Buổi chiều khi màn đêm buông xuống, Thạch Lam đã miêu tả đêm hè ấy thật thơ mộng. Đó là một đêm mùa hè êm như nhung, gió thổi mát rượi. Hai chị em ngồi trên giường và xem vào ban đêm. Những cánh hoa bàng tung bay trên tóc và rơi xuống giường thật thi vị. Tuy nhiên, trước bài thơ đó, có một nỗi buồn nho nhỏ. Tác giả cho thấy cuộc sống về đêm ở đây bằng cách thiết lập mối quan hệ giữa ánh sáng và bóng tối.

                            Ở đây ánh sáng là một khe sáng, rồi “trời sao tranh nhau tỏa sáng”, hai chị em ngước nhìn lên, như nhìn thấy sao Thổ trên cao. Những vệt sáng từ đom đóm. Sau đó, toàn bộ các điểm sáng trong tinh thể lân tinh xuất hiện và biến mất, những ngọn lửa nhỏ, ánh sáng từ những chiếc đèn lồng, vầng hào quang nhấp nháy của những chiếc đèn Mỹ.

                            Tất cả những ánh sáng này đã được nói đến rất nhiều và rất đậm đặc, nhưng chúng chỉ là những hạt, khe ánh sáng. Nó không thể xua tan bóng tối của ngày hôm ấy, thứ mà chỉ dành cho vài từ của tác giả, đã lấn át tất cả những sinh linh ánh sáng khác. Đó là những con phố, là hình ảnh những con phố, ngõ phố dần dần chìm trong bóng tối “hết sông, qua chợ vào nhà, ngõ nào cũng tới làng”.

                            Có thể nói măng đá dùng ánh sáng để diễn tả bóng tối. Sự hiện diện của ánh sáng không xua tan bóng tối mà ngược lại, nó làm cho bóng tối thêm trầm trọng. Sự tương phản này có thể là biểu tượng của những người dân nơi đây đang sống ẩn danh trong bóng tối của xã hội thực dân phong kiến.

                            Trong bối cảnh của đêm hôm đó, Nightcrawlers xuất hiện và tiếp tục cuộc sống trong đêm của họ. Còn hai chị em được mẹ phân công phụ bán lặt vặt trong cái quán nhỏ đó để kiếm thêm tiền. Những người đầu tiên xuất hiện trong bóng tối là hai mẹ con. Hai mẹ con tối mò cua bắt ốc, bán rượu đến khuya. Mẹ con tôi không bán được nhiều, nhưng chúng tôi dọn ra ngoài và bán đến tận khuya.

                            Người thứ hai là Super Phoenix, thu nhập từ công việc của anh ta khá cao, nhưng rủi ro cũng là đáng sợ nhất. Vì phở ở đây là món quà xa xỉ nhất. Những cư dân liên quan đến việc sống trong bóng tối là gia đình của chú Sam. Cơ nghiệp của cả gia đình không có gì ngoài chiếc chiếu rách và chiếc bát sắt hoen gỉ. Tôi không hát vì không ai nghe thấy, con trai tôi chơi trên cát và đôi khi nó chơi nhạc trên bàn vào ban đêm.

                            Không thể quên rằng một nhân vật khác là một bà nghiện rượu điên cuồng. Chiều nào anh cũng về nhà mua rượu uống, rồi lảo đảo đi vào bóng tối với nụ cười trên môi. Tất cả những người này đang làm việc rất chăm chỉ. Trong đêm tối đó, họ vẫn mong chờ những điều tươi sáng hơn trong cuộc sống.

                            thạch lam không dùng từ nào để miêu tả chân dung của họ, ai cũng không có mặt mũi, họ giống như những diễn viên trên sân khấu, cuộc đời có thể thay đổi tính cách nhưng số phận thì không. can nhau. Con người sống và làm việc trong bóng tối, đang sống hay đang rút lui?

                            Tuy nhiên, thay vì mất niềm tin vào cuộc sống, họ lại tràn đầy hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đây là khoảnh khắc mà tất cả họ đã chờ đợi – một chuyến tàu đêm đến. Họ mong đợi điều gì? Điều gì đã khiến họ mong chờ đến thế, nó để lại một đôi mắt ngái ngủ vẫn cố thức chờ đoàn tàu đến. Ánh đèn từ những toa sang trọng nhất làm cho khung cảnh đoàn tàu tiến vào quận trông chói lọi lạ thường. “Tôi chỉ có thể thoáng thấy tầng trên sang trọng đầy người, lấp lánh bằng đồng và niken, cùng những ô cửa sổ sáng sủa.

                            Đoàn tàu sau đó chìm trong bóng tối, để lại những viên than hồng đỏ rực bay khắp đường ray. Hai chị em cũng nhìn vào chấm đỏ đèn xanh trên chiếc xe cuối cùng rồi khuất sau rừng trúc. “Có thể nói, chuyến tàu đêm đã mang lại ánh sáng cho thị trấn nơi đây. Ánh sáng này không bình thường nhưng thắp sáng niềm tin của người dân vào một tương lai tươi sáng hơn.

                            Đối với các nhân vật khác, họ đợi tàu đến, hy vọng kiếm được nhiều tiền hơn trong khi tàu chạy và khách xuống tàu. Về phần hai chị em, Lian không mong bán được gì, cô chỉ muốn nhìn thấy đoàn tàu. Vì họ từ Hà Nội vào đây bằng tàu hỏa, nó làm cô nhớ lại cảnh hai chị em được cha dẫn đi ăn kem xanh đỏ bên hồ hồi còn rất giàu có. Con đò này có thể nói là kỉ niệm đẹp của hai chị em ở Hà Nội. Không chỉ vậy, hai chị em cũng như những người dân nơi đây đều mơ ước về một tương lai thực sự tươi sáng hơn.

                            Có thể thấy truyện ngắn của hai đứa trẻ đã cho ta những hiểu biết khái quát về cuộc sống của người dân dưới chế độ thực dân phong kiến. Chính xã hội đó đã làm cho những con người này trở nên khốn khổ. Cuộc sống giống như một cuộc đấu tranh với họ. Biết không ai mua nhưng vẫn dọn ra ngoài chờ. Có lẽ tác giả đã mang đến cho chúng ta suy nghĩ về những mảnh đời ấy.

                            ………….

                            Tải tài liệu để xem thêm bài viết Phân tích người con thứ

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button