Hỏi Đáp

HỌ ĐOÀN Ở VIỆT NAM

Họ đoàn

Video Họ đoàn

Ủy ban Liên lạc Liên minh Quốc gia (tài liệu năm 1999)

Thông tin sơ bộ về nguồn gốc họ Daoan———————————————————————-

Sau một thời gian thu thập tư liệu, được sự cộng tác, giúp đỡ của các họ Đoài ở nhiều nơi trên cả nước, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc nguồn gốc và quá trình phát triển của họ. Liên minh đã có lịch sử hơn 1000 năm tại Việt Nam. Vui lòng coi đây là hướng dẫn sơ bộ vì một số thông tin nhận được có thể không chính xác, không đầy đủ và sẽ cần thêm thời gian để thu thập và chỉnh sửa.

Ban liên lạc họ Duẫn tỉnh Nghệ An cung cấp tài liệu của học giả Duan Huihai, huyện Xích Dung Khang đời Lê, về nguồn gốc họ Duẩn, chép “trước khi cáo di cư”, “đến xuyên truyền”. chi hải dương” cùng cụ cố (không rõ tên) cùng hai con là Đoàn văn kham và Đoàn hải tử lai cáo 11 đời (xưa ở huyện Đồ) đến Du Xuyên (nay là xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) ) ) 1020, Li Taidu (1010-1028). Sau đó, ông Đoàn Văn Khang chuyển đến làng Gufu, huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương, và em trai ông là Đoàn Uy Hải vẫn sống ở Đức Xuyên. Duẩn Văn Khang là một ứng cử viên cho triều đại của Li Renzong với tư cách là một công chức và bộ trưởng. Đoàn Phúc Thượng và Đoàn Phúc Lãnh, hậu duệ đời thứ sáu của Đoàn Phúc Thượng, đi tu (nay là xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Chống lại trần, bị đánh bại bởi trần năm 1228. Con trai Thượng là Đoàn An lên núi Á Ngọc. Hậu duệ thứ 11 của Đoàn Văn Khang là Đoàn Như, một vị tướng chết ở Nghệ An phía tây vào năm 1335. Một tài liệu khác do Hội đồng tộc và một số bô lão họ Đoàn ở thôn Tutu, Thái Bình cung cấp thêm chi tiết về họ Đoàn Văn Khẩn như sau: Họ Đoàn có truyền thống lâu đời ở Việt Nam. Con cá linh (không rõ hiện nay ở đâu) đã sinh trưởng và di cư đến nhiều miền đất nước, tính đến nay có lẽ đã gần 50 đời. Gia phả, gia phả để lại của các cụ tổ sau đây:

Chú Vũ tướng quân Đoàn Huy Lượng tham gia cuộc chiến chống quân xâm lược Nam Hán năm 938, hiện có đền thờ ở nghi doãn (Hải Phòng).

Ông già Đoàn Văn Lan, tướng của Minh Vương, người sau này giúp Định Đế dẹp 12 sứ quân, nay có đền thờ ở lạc đạo (Taiping).

Tướng quân Đoàn Văn Liên (con trai Đoàn Văn Lan) nhà Đinh, người sau này giúp Lý Huân chống quân xâm lược nhà Tống, đã ban cho 10 nhân vật vào năm 1009: “Yun Tong Huan Dan Yu, Fuller History Book Comes”, và ông rút lui. Phe ủng hộ Li Gongqing lên ngôi. ly thai to level loc dien trong sang xuyên. Năm 1020, ông đưa con cháu đến đây làm ruộng và xây dựng làng mộc. Các thành viên thị tộc của Temple Village cũng có câu nói: “Sống trong một con cáo, sống trong tu viện, sống trong tu viện, sống hào phóng”.

Ông già Đoàn Văn Khang (con nhà họ Liễn) thi đỗ năm Ất Mão (1075) làm quan đến chức Lễ bộ thượng thư Lý Nhân Đường.

Bà già Đoàn Thiên Hồng (con trai của Hoàng đế Li Chao, vợ là Li Shi, mẹ của Li Renzong.

Ông già Đoàn Quang Đạo (con trai họ Hồng) là tướng nhà Lý, được phong làm tướng nước Yên Quốc Trung, có một người con gái là Đoàn, là thứ phi của vua Lý Thông

Ông già Duẩn Điền, tướng quân của Li Chaodao, người đã có công lớn trong việc dẹp loạn, tên là Yanying Ludiandi, nghĩa đen là Thôn Đồ Đồ, một mảnh đất dọc đường. Vùng hạ lưu sông là làng thợ mộc.

Ông già đoàn phúc hanh (lão hổ) làm hạ thần chỉ huy sứ bộ. Năm 1170, ông được triều đình cử đi trấn thủ vùng biển ven bờ, đưa con cháu về định cư ở Hải Thanh (thái bình, nam định) và khai hoang ruộng đất đã ban cho.

Cụ Đoàn Phúc Hạnh có 3 người con: Đoàn Phúc Thường, Đoàn Phúc Chương và Đoàn Phúc Hào.

Đoàn Phúc Thường làm quan án ở Hồng Châu, rồi làm Lý Cao Tông, nguyên là tướng triều đình. Năm 1212, ông được lệnh trở về Lăng Bingling ở Hồng Châu, khi nhà Lý sụp đổ, ông tự xưng là vua của Biển Hoa Đông và lập thành trì ở Koumao cùng với em trai của mình là Dao Anzhu. (gần Thăng Long) và làng Giả Ôn (nay thuộc Hải Phòng) chống giặc. Lại trần. Năm 1228, ông bị Trần Thụ âm mưu giết. Đoàn Phúc Thương có con là Đoàn Lợi và Đoàn Phúc Khuê.

Xem Thêm : Điệp từ là gì? Ví dụ về điệp từ

Doãn Lôi thỏa hiệp với trần gian, cưới em gái Trần Tam Nương là Trần Tam Nương rồi về tu ẩn dật.

Năm 1351, một gia đình thuộc dòng dõi họ Đoàn Phúc xuất gia trở về khất thực. Trong dòng họ này có đại lão là Đoàn Công Uẩn, có công giúp Lí Lai đánh giặc, được phong là “Đoan dũng tướng quân” ​​và được thờ làm phúc thần ở xã Quảng Bắc. .

Con của Doãn công uân là người bản xứ Doãn công, được vua phong tước công, tướng quân phong Thái thượng thị Thiếu khanh, tước Thiên hao tử, dời đến Hiến pháp, Văn giang , Hưng Yên (làng Giai Phạm, huyện Mai Vân, tỉnh Hưng Yên) Con cháu Lê Công đổi họ Đoàn gồm có Đoàn Doãn nghi, các con là Đoàn Doãn Luân, Đoàn Thị Điểm. Con cháu Đoàn Phúc Lãnh quê ở Đại Hành, Văn Giang, Hưng Yên, có một cụ tên là Đoàn Duy Tĩnh (sau đổi là Đoàn Nguyên Thục), đỗ tiến sĩ năm Cảnh Mười (1752), tước Quỳnh phủ phản. – Con của sĩ tinh là Đoàn Nguyễn Tuấn, Tiến sĩ đời Lê Hiển Tông, cải làm Thị lang bộ, tước Hải phái để phục vụ cho nhà Tây Sơn.

Thống kê sơ bộ cho thấy họ Taiping của Duan Fulan có nhiều nhánh trong tu viện, phân bố ở các nơi sau: Guangyi, Xianfan (van giang), Qicun, thuộc dòng tốt. xã kỳ tại tự lộc, hải dương), na núi (东朝), đại hanh (văn giang), hải an (thái bình), yên bái (mê linh), kim côn (an lao, hải phòng), tân hưng (tự lộc, hải dương), vũ xã (nam sách, hải dương), hà nội, bắc giang, vĩnh yên, quang cù (thủy nguyên, hải phòng, tiêu hoang (nam trực nam định) tiến lang), vinh Bảo thuộc Hải phòng.

Như vậy, họ Đoàn Phú Lân, một nhánh của dòng họ Đoàn Văn Khang xưa, đã có thể kết nối nhiều nhánh và di cư vào các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ qua các triều đại Lê, Trần, Lê và một số nhánh khác. cành cây. Không có tài liệu nào được nêu ra.

Ngoài ra, một nguồn tin khác ở Taiping cho biết, trong ngôi chùa gia đình của làng Anmai (nay là làng Chiangmai, thị trấn Anqing, huyện Qiongfu, tỉnh Taiping), Tiến sĩ Nho đã học khiêu vũ. – Thầy thuốc (544-602) cùng với ông Doãn nổi tiếng về khai hoang lập ấp. Tuy nhiên, nó được ghi lại trong gia phả của gia đình Chen ở làng Anmai: Vào thời Li Taidu, khi ông cố của Chen đến đây, một thành viên của gia tộc Du’an đã sống ở đây.

Một số nhánh địa phương của dòng họ Dogan

  1. Gia phả của Đoàn An ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An chép từ năm 1483, cho biết ông cố của ông là Đoàn Bát Tuyền, hậu duệ của Đoàn Văn Khang, quê ở làng Cổ Phục, huyện Kim Môn, tỉnh. đại dương. Duẩn Bá vâng lệnh vua Lê Thánh Tông ra trấn giữ biển. Năm 1513, do nhà Lê loạn lạc, ông bị giặc giết. Con trai của ông là Duẫn Bá đã chạy trốn đến Ngee Ann, nơi ông đã phát triển một gia đình họ Duẩn khá lớn trước khi chuyển đến khu vực nam trung bộ. Duan Weiting, thế hệ thứ năm của gia tộc Duan Batuan, sống ở làng Anlan vào giữa thế kỷ 16. Thời Nguyễn, hậu duệ của Đoàn Vĩ Tinh có 3 anh em là Đoàn Hữu Trung, Đoàn Hữu Tiền Tiền quân và Đoàn Hữu Ái khởi nghĩa chống Tự Đức nhưng bị thất bại. Ba anh em nhà Đoàn Hữu bị chính Đức giết. Một số gia đình thuộc nhánh này phải chạy vào Quảng Trị, Quảng Bình, An Giang để tránh thiên tai. Chí và những người khác đến An Giang và đổi họ thành họ Dương (hậu duệ của chi này bao gồm họ Dương Khai Hoa, tổng thống cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn). Khi chạy ra Quảng Trị thì họ mới có hậu duệ là tướng Doãn Khuê (đã chết). Dòng họ Đoàn Duy Tinh của Thừa Thiên Huế cũng có một dòng họ ở thôn Phú Môn, huyện Phú Vang, hậu duệ của dòng họ này có giáo sư Đoàn Trọng, con trai là Thượng thư Đoàn Mạnh Giao, em của Đoàn Bá, người bắt đầu sự nghiệp của mình. Tại văn giang, hưng yên.
  2. Ngoài họ Đoàn Bát Quái, còn có một nhánh họ Đoàn ở xã Vĩnh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tỉnh Thanh Hóa đến đây từ năm 1562 (thời chúa Nguyễn) và khai canh, đến nay đã được 17 đời. Họ có 2 nhánh chính, 13 chi, và hậu duệ của những người lao động nhập cư tạo thành 7 nhánh: Zhucao, Golden Mile, Đà Nẵng, Nha Trang, Dak Lak, Thành phố Hồ Chí Minh và Hoa Kỳ. Đây là hậu duệ của Doãn Văn sao? Đoàn Văn là con trai của tướng quân Đoàn Phúc Thường chạy sang châu Á sau khi cha ông bị giết.
  3. Tại xã Xuân Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, tổ tiên họ Đoàn đã đến đây khai dân lập ấp từ thời vua Trần. Ngoài ra còn có phần mộ của tổ tiên và gia phả các thế hệ.
  4. Theo di chúc của dòng họ Đoàn ở xã Hoa Hóa, huyện An Hưng, tỉnh Quảng Ninh, cụ tổ họ Đoàn là Đoàn Phúc Cao đã đến định cư ở đây từ thời Trần Thun Thông, tức là năm Quang Tài thứ 10 ( 1397). Dòng họ này có một nhánh đến Đông Triều, Quảng Ninh. Có thông tin cho rằng họ của Duẩn này vốn là họ của Ruan, sau đổi thành họ của Duẩn. Đây là họ của Thiếu tướng Duẩn Quang Đình, nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương.

  5. Dòng họ Đoàn ở thôn Kim Sơn, thị trấn Lễ Tiến, huyện An Hải, TP Hải Phòng là một dòng họ Đoàn lâu đời, đông con cháu. Tại đây, ông cố là Trung tướng Duẩn Bá Thiết của Việt Nam. Vị trí này do vua Li Taidu phong tặng khi ông giúp Li Lai đánh bại quân Minh. 6. Ở xã Hữu Hòa, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội có 2 chi đoàn lớn. Họ Đoàn ở bên phải họ cũ, thủy tổ là Đoàn Phúc Sơn, đến nay đã được 18 đời, chỉ có một họ chuyển đến nhưng vùng ven hồ tỉnh Bắc Ninh đã thành họ Đỗ. Gia đình này có Duẩn Tiên và con trai của ông là Duẩn Tiên, đỗ trạng nguyên. Họ Đoàn của Zuo Qingai nói rằng tổ tiên của họ đến đây từ thời tiền sử (ly nam de) và có rất nhiều hậu duệ, nhưng họ không có huyết thống và không thể chứng minh nguồn gốc của mình.
  6. Dòng họ Đoàn xã nghĩa đô (nay là huyện nghĩa đô, quận cầu giấy, thành phố Hà Nội), quê gốc ở xã thanh cao, huyện thanh oai, tỉnh Hà Tây, truyền từ đời này sang đời khác. Trong dòng họ này có cụ Đoàn Nhân đỗ tiến sĩ. Tại nghĩa đô có mộ và nhà thờ Đoàn nhân thục.
  7. Họ Đoàn ở làng Yên Cảnh (Phố Cửa Bắc – Hà Nội ngày nay) là một họ cổ đã thất truyền gia phả. Họ có 4 nhánh đi đến các khu vực sau: – Một nhánh đi đến cánh đồng lau Xing’an. Có một nhà thờ. – Một chi nhánh Nam Định. Có một nhà thờ. – 1 nhánh đi thái bình – 1 nhánh đi nam. Đặc biệt ở Hà Nội, Gaozu là Duẩn Văn Tiêu, có mộ ở nhà thờ họ ở Cổng Bắc. Gia đình có cố tư sản Việt Đoàn (ở đường Đinh Tiền Hoàng), anh chị cố vấn Phạm Văn Đồng. Đình còn giữ được 13 đạo sắc phong năm xưa.
  8. Gia đình họ Đoàn ở thôn Đại Cát, thị trấn Liên Mô, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cụ tổ là Đoàn Đình Long, 20 đời, gia phả bằng chữ Hán Nôm và nhà thờ họ.
  9. Họ Đoàn ở làng Kiều Thị, xã Thắng Thắng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, cụ tổ là Đoàn Phúc Lộc, đến nay có 18 đời. Thế hệ thứ hai của gia đình có một người chú già là Duẩn Bạn được phong là công tước, và thế hệ thứ chín có một ông già Duẩn Phúc Hoàn làm bác sĩ trong một bệnh viện Thái Lan. Ở thế hệ thứ năm, một nhánh chuyển đến Beixi, Zhoujiang và Xing’an, đổi họ thành Du. Đây là họ của nhạc sĩ doãn treng.
  10. Gia đình họ Đoàn ở thôn Hải Yến, thị trấn Hải Triều, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hưng An, cụ nội là Đoàn Phúc Chiêu, đến nay đã được 18 đời. 8 người trong gia đình này đã đỗ cử nhân vào triều Nguyễn, riêng gia đình Duẩn Mã thì cả 5 cha con ông đều đỗ cử nhân. Ở thế hệ thứ 11 của gia đình này, có người chuyển đến Tianhai và Taiping. Ngoài ra, họ có 10 người con trai thuộc các thế hệ khác nhau đều đã đi nơi khác lập nghiệp nên không thể kết nối với quê hương?
  11. Họ của Đoàn An ở làng Fanglou, thị trấn Yuqing, huyện Jindong, tỉnh Xing’an, ông cố của anh ấy, Duan Fuxin, có 14 đời. Nhiều chi họ này đã di cư đến các xã Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng và các xã trên địa bàn.
  12. Họ của Duan Weixian là thôn Dongwu, thị trấn Gonghe, huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương. Ông cố của anh ấy, Duan Weixian, đã được truyền lại 14 đời. Thánh nhân có hai người em: một là Tianlu và Xing’an; hai là Tianlang và Haiphong, nhưng cho đến nay, họ vẫn chưa liên lạc được. Đây là họ của ông Duan Weicheng, chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
  13. Dòng họ Đoàn ở thôn Kim Sơn, thị trấn Tân Trào, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng. Cao tổ là Đoàn Phúc Sồ, truyền đến nay đã được 15 đời.
  14. Gia đình anh Đoàn quê ở thôn Lương Dương, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Cụ là Đoàn Công Trí, người Nam Định vào đây đã 15 đời. 5 năm sau khi ra Hải Phòng, người anh cả trở về Nam Định.
  15. Có một dòng họ họ Đoàn lâu đời ở xã Tiểu Hoàng thuộc Tổng Đại Hoàng huyện Đại Ninh tỉnh Nam Định (địa danh cũ, nay không biết thuộc xã nào, khu nào). Năm 1433, hai anh em vào đây lập nghiệp và lần lượt định cư ở hai nơi: một về xã nhà Quảng ở vùng bãi bồi bình dị huyện Thủy Nguyên, một về làng Hòa Hy, huyện Cát Hải, TP Hải Phòng. Cụ tổ của giống mèo hai là Đoàn công tự đức. Con cháu nhà họ Đoàn có ông chủ quán nước mắm Vạn Đức nổi tiếng và con trai ông là nghệ sĩ trữ tình Doãn Chuẩn.
  16. Họ của Doãn An ở thôn Vân Cung, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông cố Duan Huitai, tên thật là Fuping, đã đến đây từ triều đại nhà Trần cách đây 700 năm. Truyền đến đời thứ bảy, trong họ có một lão nhân tên là Đỗ An, hiệu là Văn Tông, đỗ cử nhân năm Thiên Đức thứ mười tám (1487). Doãn Hy, Doãn Thuật đỗ tú tài thời Nguyễn.
  17. Một nhánh khác của họ Đoàn ở xã Nam Giang, huyện Nam Thụk, tỉnh Nam Định. Thủy tổ là Đoàn Chính Nghĩa, quê quán ở huyện Văn Giang, Hưng An đến đây từ thời Trần Hiến Tông (1498-1505) ) Đời thứ năm của dòng họ này có một ông già tên là Doan Dankui chuyển đến quận Yyen, huyện Nam Định và lập nghiệp, một ông già tên là Doan Shihe được dân làng, cùng xã Nam Bình (cùng huyện) tưới nước. tôn ông làm hoàng thôn, Di Dedi và Qi Phải có một gia đình. xuất gia. Ở thế hệ thứ 7, một ông già tên là Đoàn Công Công được bổ nhiệm làm quận thứ ba, và em trai của ông là Đoàn Đình Trạch giảng dạy trong Ủy ban Giám sát Thủ đô Quốc gia. Doan Youde, đời thứ 11, đỗ 2 khoa cử nhân đời De.
  18. Gia đình Đoạn An ở thôn Nam Chúc, xã Dzhuk Kang, huyện Dju Ninh, tỉnh Nam Định có 2 ông tổ là Đoạn Lỗ và Đoạn Mật người Kim Môn Hải dời đến đây vào năm Hồng Đức thứ 25 (1484). .Hiện tại có 2 chi nhánh lớn, 600-700 người.
  19. Họ Đoàn ở thôn Nhất, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Cụ là Đoàn Đình Trác, sinh tháng 10, Đinh Hợi (1587), quê Hưng Yên, đỗ đệ nhất lục, năm 1604, văn võ song toàn, được phong tước Đô ngự sử, Lê Trinh hầu.
  20. Họ Đoàn thôn Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cũng là một họ Đoàn lâu đời. Họ bao gồm Đoàn Quân, một học giả Nho giáo thời Phục hưng, và Đoàn Văn Thư, một nhà thơ mới trong nhóm tự lực.
  21. Dòng họ Duẩn ở thôn Hồng Việt, xã Nam Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định là một dòng họ Duẩn lâu đời. Cây phả hệ và mồ mả tổ tiên. Đây là họ của ông Đoàn văn Kiển, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Than Việt Nam.
  22. Dòng họ Đoàn Văn ở thôn Thượng Tân, xã Ngô Nhạc, huyện Kiên Tương, tỉnh Thái Bình là dòng họ Đoàn Văn, cụ nội Đoàn Văn là người tỉnh Nam Định, truyền đến đây được 15 đời. là cây phả hệ và nhà thờ họ. Họ này có 6 chi di cư trong và ngoài tỉnh.
  23. Dòng họ Đoàn ở thôn Văn Thông, xã Ngô Nhạc, huyện Kiến Hưng, tỉnh Thái Bình là dòng họ Đoàn Hồ, cụ là Đoàn Thanh Đàn (không rõ quê quán) đã truyền được 15 đời. Có cây phả hệ và nhà thờ họ. Họ có 3 chi nhánh di chuyển trong và ngoài tỉnh.
  24. Đoàn An họ thôn Lương Bang, thị trấn Thái Nguyên, huyện Thái Thủy, tỉnh Thái Bình, ông cố là Đoàn Đức Trung (không rõ quê quán). Dòng họ có 2 chi cùng một tỉnh là xã thái thịnh huyện thái thụy và đồng quy huyện tiền hải.
  25. Họ Đoàn quê ở xã Hưng Đạo, huyện Hộ An, tỉnh Cao Bình. Sau khi nhà Lê chiếm được Thăng Long, ông cố đã cùng họ mo về đây. Một chi của họ này đã được chuyển đến huyện Guanghua, tỉnh Gaoping.
  26. Dòng họ Đoàn ở xã Đề Thám, huyện Quảng Hóa, tỉnh Cao Bằng cũng từ dưới đáy vực lên khi suy tàn. Hậu duệ của tổ tiên này là Trung tướng Duan Nanlong (vừa qua đời). Đây là họ của ông Đoàn ngọc Bông, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
  27. Dòng họ Đoàn ở thôn Vọng Thấy, xã Đa Mai, trấn Bắc Giang, cụ tổ từ Hải Dương đến đây khai khẩn đất đai đã 16 đời. Đây là họ của ông Duan Tao, phó chủ tịch Ủy ban Thể thao Nhà nước.
  28. Họ Đoàn ở xã Ôn Trọng, huyện Việt An, tỉnh Bắc Giang, cụ là Đoàn phúc linh từ Sơn Tây đến đây đã 18 đời. Họ có gia phả Hannon và mồ mả của tổ tiên.
  29. Họ là người xã Duẫn Phú Hòa, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh, truyền được 16 đời. Trong gia đình này có một ông già tên là Duan Mengde, đỗ tiến sĩ khoa giáp và khuyển trong cùng một triều đại (1514).
  30. Gia đình họ Đoàn ở xã minh đạo, huyện tiên sơn, tỉnh Bắc Ninh, cụ là Đoàn Phúc Chinh. Hậu duệ của dòng họ này là nhà thơ Đoàn Phú Tứ, một trong bốn văn nhân lớn của họ Đoàn Thăng Long – văn chương Hà Nội thế kỷ 19-20.
  31. Ông họ Đoàn quê làng An An, huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà, cụ tổ là Đoàn Đạo Tôn. Họ có 3 nhánh lớn ở ba nơi: nhánh ông cố là Đoàn Hữu Hoan, con cháu hiện sống ở thôn Thanh Liêm, xã Thanh Bình, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nhánh thứ hai của Gaozu là Đoàn Thoát Chân, có con cháu hiện sinh sống tại thôn Cá Sấu, xã Liêm Túc, huyện Huyện, nhánh đời thứ ba là Đoàn Hữu Phú, hậu duệ hiện sinh sống tại thôn Thích, xã Tam Di, huyện Bình Lộc, tỉnh Hà Nam.
  32. Họ của Đoàn An ở xã Xingming, huyện Xinghe, tỉnh Taiping, ông cố của anh ấy là Doan Fude (không rõ lai lịch) đã được 16 đời. Họ có gia phả và mồ mả tổ tiên.
  33. Họ Đoàn quê ở làng Tiên Cung, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Họ có 5 chi: 3 chi ở Trung Sơn cùng huyện, 1 chi ở xã Thanh Hoà huyện Đô Lương cùng tỉnh.
  34. Gia đình ông Duẩn ở xã Đức Lắc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, ông cố của ông là ông Duẩn Youmu từ phương Bắc vào đây vào cuối thời Lê. Ba người trong số họ đã góp phần giúp gia đình Li Zhonghong có được tước vị công tước. Họ này đã được sử dụng trong 18 thế hệ.
  35. Đoàn An họ Đoàn là họ của Đoàn An ở xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, ông cố là Đoàn Sái từ Hầu Lịch đến đây, đến nay đã 18 đời, trong đó có một cụ già. họ Đoàn Tử Quang đỗ cử nhân năm 15 tuổi. Khoa thi 82 (1900), được coi là một sự kiện hy hữu trong lịch sử khoa thi Việt Nam.
  36. Ở 2 huyện Quảng Trác và Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình có một dòng họ họ Đoàn mà ông cố là Đoàn nghi trung được vua Lê Thánh Tông cử trấn thủ Quảng Bình năm 1460. Gia đình gốc ở làng Thông Hào, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
  37. Họ Đoàn ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, ông cố là Đoàn Công Huy, con trai duy nhất của một con voọc khổng lồ (không rõ tên), quê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Chúa Nguyễn Hoàng. Con của Đoàn công huy là Đoàn công nhan được chúa nguyễn phong là Thạch quân công. Nhan có người con gái là Đoàn thị ngọc phi, là vợ của chúa nguyễn phú lan, được hoàng thất tôn là hoàng hậu hiếu thảo. Lăng Tiểu Linh Hậu tên là Lăng Vĩnh Yên, hiện nằm ở thôn Triệu Sơn, huyện Vệ Xuyên, Quảng Nam, đã được xếp vào danh sách di tích lịch sử. Nguyễn Phúc Chân, con của chúa Nguyễn Phúc Ngõa và bà Duẩn Ngọc Bồi, nối ngôi chúa. Gia đình chắt chiu khi kinh doanh ở Sài Gòn và một số tỉnh phía Nam. Đây là họ của nhạc sĩ Thuận Yến Đoàn Hữu Công, có con trai là ca sĩ Thanh Lam.
  38. Họ Doãn người xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, ông cố là Đoàn Đại Lãng (không rõ tên thật), quê quán Mai Thuận, huyện Tân Minh, phủ Phù Nam, tỉnh Hải Dương, theo Nguyễn Vương đến thu hồi đất ở đây. Cụ khai canh 200 mẫu đất ở các xã xuân minh, nguyễn biểu rồi cùng vợ về quê, để lại con trai là đoàn ngọc lai quản lý đất và sinh sản ở Quảng Nam. Đời thứ 9 của dòng họ này có hài cốt của tướng Đoàn Ngọc Thái, tướng quân Trần Quang Diệu của nhà Tây Sơn trấn thủ kinh thành Phú Xuân-Huế hy sinh trong trận vây thành của quân Nguyễn Ánh .
  39. Họ Đoàn ở xã Điện Biên, huyện Điện Bản, tỉnh Quảng Nam, cụ cố nội là đồng minh của Lý An Đường từ phương bắc đến đây vào năm Giáp Dần (1564). Theo gia phả, vì bị truy sát, bốn anh em đến đây vì đổi họ, phạm tội.
  40. – Con trưởng là Đoàn Đăng đổi họ là Phạm Văn Lễ, ở thôn Cẩm Vân, thị trấn Điện Hồng.

    – Con trai thứ là đoản thăng, tức luật, được ông Chen Qingtian nhận làm con nuôi nên đổi tên là tran ba dat ở vùng biên giới nhất Điện.

    – Con trai thứ ba là doan the dam, tức là doan trong luôn đổi thành pham phu dieu của dien trung.

    – Con trai út là binh hòa ông Đoàn Quế Phủ, không có lý lịch riêng nhưng trong gia phả của Phạm Phủ thì ghi ông có 2 người con là Phạm Phú Tài và Phạm Thị Xuân Lược. Dòng họ Phạm Phủ Điều, ở triều Đức, danh nhân Phạm Phủ Thứ được phong làm Tam bộ thượng thư, một vị thượng thư có tư tưởng cấp tiến, nhiều lần thúc giục nước Đức đổi mới theo phương Tây, nhưng bị phe bảo thủ phương Tây bác bỏ. , chống lại triều đại cũ và Đức tôi không lắng nghe bản thân mình. Sau khi anh ta và Pan Qing đồng ý thương lượng việc mua lại các tỉnh phía nam, anh ta vẫn chưa kết thúc và bị cách chức khi trở về nhà.

    Vào ngày 27 tháng 7 năm 1991, đại diện của năm hội đồng thị tộc, bao gồm Fan Fu, Chen Gong và Duo’an, đã tổ chức một cuộc họp tại các thị tộc Diamban và Guishan ở Quảng Nam để thảo luận về so sánh phả hệ và cùng nhau xác định năm chi. Đây là con cháu họ Đoàn.

    1. Dòng họ Đậu An xã Đại Hưng huyện Ông Hóa tỉnh Hà Tây là một dòng họ Đậu An cổ thời Lê sơ, đời thứ 5 dòng họ có một vị tướng được phong làm Lê triều- Trang Shi. Đô đốc suất sứ, rồi dinh đô đốc, tả đô đốc, tước dinh.
    2. Y Đạo Nho

      1. Đoàn Xuân Lôi người làng Ba Hồ, tổng Tân Phúc, huyện Hộ Hiệp, tỉnh Bắc Giang, nay là thôn Trâu Lò. Taisheng Du Keshi, năm Dần (1384), xương bùa tám tuổi, do Thiên tử chỉ định. Theo chiếu chỉ của vua Trần nghệ Tông, kỳ thi được tổ chức tại chùa Vạn Phúc, núi Tiên Đấu, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. 30 tiến sĩ trôi qua, giờ chỉ ghi được 2 họ và tên. Ông đã từng làm quan trong Cung điện Trung ương và Sứ đoàn Ái Châu. Một bản sao chép tay của tác phẩm này hiện đang có sẵn.
      2. Xã cao mi, huyện thanh oai, nay là thôn cao các, xã thanh cao, xã thanh cao, hội công nhân hà tây. Năm Thái Hòa thứ sáu (1447), khi vua Lý Nhân Đông lên ngôi, ông đoạt được Huân chương đồng hạng ba của Thương vụ bộ, được phong làm đệ tử.
      3. Đoan Lan, sinh ra ở thị trấn Xianglu, huyện Changxin, nay thuộc thị trấn Danxing, huyện Jialu, tỉnh Hải Dương. Vào năm thứ 7 của Li Qingzong Shihongde (1466), ông được nhận vào hàng thứ hai của hoàng gia (hoàng giáp), một linh mục bình thường, làm quan đến sứ bộ, và được gửi đến nhà Minh.
      4. Đoàn hiến chân, người xã Trên Xá, huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên. Li Qingzong Hongde mười năm (1469) được nhận vào hạng ba đồng Tiến sĩ sử học.
      5. Đoàn Mai quê làng Kim Kha, huyện An Lão, nay ở làng Kim Kha, xã Shengli, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Vào năm thứ 16 của Hongde (1475), Li Qingzongshou tốt nghiệp khóa thứ ba của tiến sĩ khoa học khứu giác. Ông đã liên tiếp giữ các chức vụ trong Shangshufu, Chichao Wenquan, Du Linbu và Tước tòa nam.
      6. Đoàn Huệ Như, thầy cúng người huyện Ngự Thiện, hiện sống tại xã Đoàn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đạt được hạng ba Đồng chương, khoa Định Kế, Lý Khánh Tông Hồng Đức hai mươi tám năm (1487) làm chánh sứ, hội viên Hội Tao Đàn. Hán tự.
      7. Đoàn Thực quê ở xã Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông đỗ Đệ nhị giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiển Tông. Từng là sĩ quan nhiệm vụ ám sát.
      8. Đoàn Văn Thông, người huyện Quảng Đức, nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hiện sống ở xã Long Hà, huyện Thái Làng, tỉnh Bắc Ninh, nay là thị trấn Phú Lương, tỉnh Bắc Ninh. Sinh năm Hong Shunsan (1511), ông tốt nghiệp Khoa Danai và lấy bằng Tiến sĩ vào năm thứ hai. Được phục vụ như người hầu.
      9. Đoàn lượng tang phủ hay Đoàn đức phủ quê ở huyện đường an, nay là thôn lương ngọc, thị trấn thục khang, huyện cẩm giang, tỉnh hải dương. Vào năm sau, Kaobo, từ gia đình chó của Jia, làm quan đến Trường Đông của Đại học cùng năm với năm Hongshun thứ sáu (1514).
      10. Đốc đốc, quê ở tổng Văn Xá, tổng Tài thôn, tổng Phù Hoa, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Văn Xá. Sinh năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Ông đã từng là một quan chức, một bộ trưởng, một Hầu tước Hawen, và một sứ giả của nhà Minh.
      11. Đoàn Bát, người xã Phù (nay là thôn Phù Nội), huyện Thanh Thái, huyện Hình Sơn, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đỗ hội nguyên 40 tuổi, 54 tuổi, đỗ tiến sĩ thứ hai khoa Định Tô, Hồng Xuân Phúc vào triều năm 16 tuổi (1577), sau giúp nhà họ Lý làm quan.
      12. Đoàn Khắc Thận (sinh 1530-…), người xã Vệ, huyện Tri Lăng, tỉnh Hải Dương, nay là xã Yêu Quốc, huyện Nam Sa. Năm 60 tuổi, ông đỗ đồng tiến sĩ lần thứ hai, tốt nghiệp khoa Sử, làm quan trong triều vào năm thứ hai khai quốc Trung Hoa Dân Quốc (1589). giúp nhà Lê và trở thành người hiến áo giáp chính thức.
      13. Đoàn Hàn quê xã phú nội, xã hưng sơn, huyện ninh giang, tỉnh hải dương. Ông 54 tuổi, học hết năm thứ ba trung học cơ sở, xuất thân làm vườn, lên 3 tuổi thì mất (1580), những năm cuối đời làm quan Hiến chương.
      14. Đoàn kim sơn, quê làng Mỹ Thuận, xã Thiên Thắng, huyện Thiên Lãng, TP Hải Phòng, làng Mỹ Thuận, huyện Thiên Minh, nay là làng Mỹ Thuận. Năm 32 tuổi đỗ Đồng tiến sĩ, đồng thời tốt nghiệp khoa Sử, năm Quảng Tự thứ 2 (1589), được bổ làm Giám sát tập sự. Trong chiến tranh, ông không theo nhà Lê mà đem quân đi đánh.
      15. Đoàn Tuấn Hoa (1622-…), người huyện đặc khu Cổ Đông trấn, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Quê ông ở xã Chi Nại, huyện Tiên Đấu, tỉnh Bắc Ninh. Ông còn có tên là Nguyễn Tuấn Hoa. Năm 13 tuổi được vào hạng du mục, năm 55 tuổi được vào hạng ba hạng đồng. Anh ta bị trục xuất khỏi đất nước vì vi phạm quân sự và chính trị, và sau đó được sử dụng như một bộ trưởng tự xưng, tử tước và tử tước. Ông làm thị trưởng Cao Bình, sang nhà Thanh giao việc biên ải cho Chu Lập Bình, thăng quân cho Youcun, vào triều, thọ 75 tuổi, được xếp vào hàng trí thức. 16. Đoàn Lượng Dũng (1681-1741), quê xã Phú Thứ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Sau đó đổi tên thành Duẩn Padang. Năm 30 tuổi đỗ Đồng tiến sĩ năm thứ 3, khoa Thanh học, khoa tiến sĩ, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Đức Tông. Năm Kỷ dậu (1729), ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh. Làm Thượng Thư, bố vợ Số, mất bệnh tháng 6 năm Đinh Dậu (1741), hưởng thọ 62 tuổi. Đoàn Bá Dũng, Nguyễn Huy Nhuân, Cao Huy Trắc, Trình Bá Trường đều quê ở xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Sổ to lê – trinh.
      16. 17.Chú Duẫn An (1715-…) quê ở xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh, thành phố Hà Nội, nay quê ở xã Phủ Hà, huyện Sở Sơn. Năm 32 tuổi đỗ Định Nguyên nhị tiến sĩ võ học, dần dần thụ giáo.

        1. Đoàn duy tinh (1278—1783), người xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, nay thuộc xã Quynh Nguyên, huyện Quynh Phụ, tỉnh Thái Bình, quê quán ở thôn Đại Hành, huyện Hàng Yên, sau này là Văn Giang. , để không làm mất lòng tinh chúa đô vương trinh sâm, ông đổi tên là doãn nguyễn thục. Ông là công thần của đời Lý Tiên Đường, cả dân sự lẫn quân sự. Năm 25 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ, khoa Chính thống, niên hiệu Cảnh Hồng thứ mười ba (1752), do Lý Tiên Đường ban. Năm Simpson (1768), ông làm nhân viên hiệu sách kiêm kiêm chức Xiandu. Ông có tính cách kiên quyết và tính khí luôn giữ nguyên, được các học giả vô cùng kính trọng. Chính anh ta là người đã sản xuất bảng tính phí. Bác Bối, nếu lấy được người thật thưởng thì ba lượng bạc.
        2. Sau một thời gian, ông về quê chịu tang, nhưng nước nhà loạn lạc, ông lại xin ra làm quan, triều đình cho ông lĩnh quân ở vùng cao nguyên.

          Năm đầu tiên (1771), ông làm sử quan chính của nhà Thanh và cống nạp, sau khi trở về Trung Quốc, ông được thăng chức thứ trưởng và Qiong Xuepa bị cách chức.

          Xem Thêm : Văn hoá xếp hàng | TRUNG TÂM HỖ TRỢ SINH VIÊN

          Năm Giáp Mã (1774), ông được bổ nhiệm làm tổng đốc Ngee Ann, ông đề nghị thoái vị vì không đồng ý ủng hộ việc giới thiệu Công tước. Ông qua đời vào năm sau (1775) ở tuổi 57, và được truy tặng chức Du Wusu, Cui, cảnh sát.

          Sau khi đi sứ về, ông đã chuẩn bị một bộ sách về binh giáp của Đoàn Hoàng, gồm 2 quyển.

          1. Đoàn nguyễn tuấn (1750 -…) có bản chép là đoàn văn tuấn, con của đoàn nguyễn thục, quê ở xã quynh nguyên, huyện quynh phụ, tỉnh thái bình. Tên thật của tôi là Hải Vân. Tiếp TS Lê Chao. Sau làm quan Tây Sơn, đến chức Thị lang bộ, tước Hải văn. Sau khi Ruan Hui đánh bại Dong Da, anh ta được cử làm sứ thần của nhà Thanh. Ông là một nhà văn nổi tiếng. Em gái ông là nơi ở chính thức của đại thi hào Nguyễn Du.
          2. 20.đoàn văn binh (1824 – … ), người Hạ Lãng, huyện Quảng Điếm, phủ Thành Thiên Huế, nay là thôn Hạ Lãng, xã Quảng Phúc, huyện Quảng Điếm. Ông còn được gọi là Hội văn học. Năm 25 tuổi trúng tuyển phó bảng Ân Đức Thương hệ khóa, năm Canh Đức (1848) làm hạ sĩ quan đại học sĩ, bị cách chức. tòa án và nhận được một lá thư cấp bộ.

            Tài liệu này được trích từ cuốn “Việt Nam học” do NXB Văn học ấn hành năm 1993 – Ngô Đức Thọ chủ biên. Không có tên Đoàn Nguyên Tuấn trong cuốn sách này.

            Do Nguyễn Nho cung cấp

            1. Đoàn Xuân Sang người xã Chân Nguyên huyện Nam Chân thi Trường Sơn Nam năm Quý dậu (1813) đỗ 14/28 người. Sau này trở thành đô đốc.
            2. Đoàn trong quynh, người thôn Trung Lịch, huyện Bình Dương, thi Trường Gia Định năm Quý Dậu (1813) đỗ thứ 4/8.
            3. Đoàn Bá Trinh quê quán xã trên, huyện văn giang. Khoa thi năm Canh Tý, Gia Long thứ 18 (1819 – Trường Lạc Nhạc, thứ 2 trong số 17 thí sinh, trở thành tư nhân).
            4. đoàn thế trạch, quê ở xã phú hộ, huyện kim anh. Khoa thi Hội năm Minh Minh thứ 2 (1621) Trường Thăng Long đỗ thứ 15 trong số 23 người.
            5. Đoàn Khiêm Quang, người làng An Thạnh, huyện Bình Dương, thi khoa Gia Định năm thứ 2 khoa Minh Mạng (1821), đỗ 7/16 người, làm quan Hình Bộ.
            6. Đoàn Huy Tú quê ở xã Phương Duy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Đi thi Thương Minh năm thứ 9 (1829) tại trường Thanh Hóa, đỗ thứ 6/11 người, sau làm tri huyện.
            7. Đoàn mai (hai cha con cùng thi), xã Hải Yên, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên, thi năm Minh Mạng thứ 9 (1828) tại trường thi Nam Định, đỗ 25/30 người, bị phế từ văn phòng. 8. Đoàn Đan Dương người xã Quảng Thiêm, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, dự khoa thi Minh Minh năm Tân Mão (1831) tại trường Nghệ An, đỗ 11/18 người, danh tiếng lẫy lừng, được thăng Tiên sinh. Dài, ốm trong kỳ nghỉ. 9. Đoàn trọng huy (cha con cùng thi), người thị trấn thanh trì, huyện thanh trì, Hà Nội, thi trường nam định năm Tân Mão thứ 12 (1831), đỗ 2/31 người.. Học viện Shijinshi, Bắc Ninh lâu. Một trong những tác giả văn chương Thăng Long-Hà Nội thế kỷ 19-20.
            8. Đoàn Văn Hoan quê ở xã Nam Phố, huyện Phú Vang, tỉnh Thanh Thiện. Ông dự kỳ thi mão, khoa khai nguyên thứ 3 (1843) tại trường thien, đỗ thứ 22/39. Là một quan chức cho đến khi chú.
            9. Công đoàn, nhân dân xã vi sơn, huyện thạch thất, tỉnh Hà Tây. Đi thi khoa Quý nhân khoa thứ 3 (1848) tại trường Hà Nội, đỗ thứ 7 trong số 21 người.
            10. đoàn văn binh quê xã hà lang huyện quan điện. Ông là người đầu tiên đỗ kỳ thi binh ngô và đứng thứ sáu khoa Thừa Thiên (1846) trong số 46 người đỗ. Năm mất (1848), ông đỗ Phó bảng, làm Hiệp nghị đại học sĩ, được thăng Thượng thư, các chức quan là Thái tử, Thiếu lang, Chấp chính sự.
            11. Đoàn duy trinh quê ở xã Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thứ 34 trong số 46 học sinh trường Suncheon, thứ 6 trong kỳ thi Bính Ngọ (1846). Trở thành một giáo viên và báo cáo lại.
            12. Đoàn Khác Nhượng (em ông Trình) người xã Nhân Hòa, huyện Bình Sơn, khoa Bính Ngọ trường Thừa Thiên, đỗ thứ 40/46, đỗ đệ lục giáp (1846), làm quan, nổi tiếng cho sự trung thực của mình.
            13. đoàn duy thức quê ở xã mai dịch, huyện từ liêm. Đỗ thứ 4 trong số 26 học sinh trường Hà Nội, thứ 7 khoa thi Đinh Quý Niên (1849). Sau đó nó được đặt tên là Quận Ba.
            14. Đoàn Hy quê ở xã văn cung, huyện nam chân, tỉnh nam định. Thủ khoa trường nam định. Khoa thi năm thứ 1 (1848) lấy 27 người đỗ. Một giáo viên được bổ nhiệm.
            15. Đoan đức thương, xã đồng công, huyện hương sơn, tỉnh hà tĩnh, đứng thứ 20/24 trường nghệ an khoa thi canh tuất thứ 3 (1850).
            16. Đoàn kim đào (sau đổi là đoàn đào) quê ở xã Ưu Đàm, huyện Phong Điền. Cha của ông, ông Đoàn Độ, cũng tốt nghiệp đại học. Ông đứng thứ 20 trong 22 người trong nhâm ty trường Thanh Thiên Huế đời thứ 5 (1852). Được bổ làm Án sát, rồi cách chức, thăng làm Tham mưu trưởng.
            17. Đoàn văn nghệ, người xã văn cung, huyện nam chân, tỉnh nam định. 5 Đê (1852) Trường Nam Định thi đỗ thứ 6 trong số 20 người.
            18. Đoàn Ngọc Ái, người xã Hải Yên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, khoa thi Nam Định khoa 5 (1852) đỗ thứ 10.
            19. Duan Wedi, người xã Ju’an, huyện Tongchun, Fu’an, đỗ thứ 9 trong 10 học sinh trường Bình Định, đức thứ 8 năm Ất Mão, đức thứ 8 (1855) ).
            20. Đoàn Tảo, quê xã Hải Yển, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (anh của Đoàn Ngọc Ái), niên hiệu Dema thứ 11 (1858) đứng thứ 22 trong 22 trường nam định) được bổ làm Lâm phủ. sau đó đã bị sa thải.
            21. Tân Thiện Đoàn người làng Mỹ Thông Hậu, tỉnh Kiêm Thắng, khoa Kỷ Mão thứ 11 (1858) đỗ thứ 3 trong số 9 học sinh trường Gia Định
            22. Đoàn Đảng người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, khoa thi năm ấy đỗ thứ 21 trong số 22 học sinh khoa Nam Định, niên hiệu 21 (1868).
            23. Một nhóm như Bích, người xã đầu kinh, huyện đăng sương, Quảng Trị, đỗ thứ 11/29 người đỗ khoa cử năm Canh mão thứ 23 (1870). Bổ nhiệm Giám đốc Nội vụ.
            24. đoàn đăng, Người xã huu thanh oai, huyện thanh trì, Hà Nội, Khoa thi năm Canh ngọ, 23 de (1870). Bổ nhiệm làm tam phẩm.
            25. Đoàn Đình Tiến, người tỉnh Nam Định, đỗ thứ 25 trong số 25 người của Nam Định khoa thi năm Giáp Tuất (1874).
            26. Đoàn văn anh, sau đổi là Đoàn văn phương, người xã Đồng Thành, tỉnh Nam Định, đỗ thứ 6/21 khoa Nam Định, khoa thi Bính Tý, thứ 29 tháng Tak (1876). Ren Chunxiao thống đốc, và sau đó từ chức.
            27. Một nhóm sĩ người xã Thái Bình, tỉnh Nam Định, đỗ thứ 16/21 khoa Nam Định, khoa thi năm Ất hợi, 29 tuổi (1876).
            28. Đoàn Điều, người xã Ngọc Thanh, huyện Thủy Phước, tỉnh Quảng Nam, đỗ thứ 7/12 khoa thi Bình Định, khoa Kỷ hợi, đời 29 (1876). 31. Tổ trú, sau đổi là doãn lang, người thôn ưu đảm (con của đoàn kim đào) huyện phong điện thừa thiên, thi đỗ thứ 28 trong 32 người khoa thừa thiên từ niên hiệu thứ 31 (1878) đến dần tăng lên mỗi năm. Được bổ nhiệm làm Án sát Quảng Nam.
            29. Đoàn Diễn người xã Hải Yến huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên đỗ thứ 15/24 khoa Đình khoa thứ 31 (1878). Bổ nhiệm tri phủ quynh lưu.
            30. Đoàn văn Thước, xã ưu Đàm, huyện Phong Điền, phủ Thừa Điền, đỗ thứ 29/31 trường Thừa Điền, khoa thi năm, kiến ​​phúc thứ nhất (1884). được bổ làm quan ba huyện.
            31. Đoàn xã huý thanh oai, huyện thanh trì, hà nội (con của đoàn trong huy), khoa thi thứ 22 trong 47 người của trường thi hương nam- ninh bình, khoa thi năm con dậu, ham nghi đầu tiên (1885). Trần Phú Ninh Bình được bổ nhiệm làm thành viên nước ngoài của Kinh lược sứ Nam Định. Trong thời gian làm thị vệ, ông đã báo cáo với triều đình việc chỉnh đốn giáo dục, soạn thảo giáo huấn, thể lệ thi cử, có nhiều tư tưởng tiến bộ.
            32. Duan Cuilian, Haiyan Township, Tianlu County, Xing’an Province, đứng thứ 12 trong 56 người Hà Nam vào năm Thanh Hải Thông Khánh thứ 2 (1887).
            33. Đoàn Tôn quê xã Xuất Thương, tỉnh Nam Định, đỗ thứ 20 trong số 56 học sinh trường Hà Nam khoa thi Đình Hội, Đồng Khánh thứ 2 (1887).
            34. Đoàn tử, người xã phú môn, huyện phủ vang, khoa thi mão, đệ tam (1891).
            35. Đoàn Khôi, xã ngọc sa, tỉnh Quảng Nam, phủ Thừa Thiên, khoa thi Tân niên thứ 3 (1891), đỗ thứ 23/27.
            36. Đoàn văn san, người xã Đức Nhuận, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, thi khoa Tân Mão, niên hiệu Thành Thái thứ ba (1891).
            37. Đoàn chú vi, ấm sinh, quê quán huyện Bình Sơn, Quảng Nghĩa, Trường Bình Định 14/19 (27 tuổi), khoa thi mã, thành phố thứ sáu của Thái Lan (1894) ).
            38. Duan Cuiwu, xã Haiyan, huyện Tianlu, tỉnh Hưng An. Năm 35 tuổi, năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thái Nguyên thứ 6 (1894), ông đỗ thứ 12 trong số 60 học sinh trường Hà Nam. Con trai của Duẩn Mã. 42. Đoàn văn huy quê ở xã mai dịch, huyện từ liêm, hà nội. Năm 37 tuổi, ông thi đỗ Lục tỉnh năm Giáp Ngọ (1894) thứ 16/60.
            39. Đoàn Tử Quang, người xã Phụng Công, huyện Tương Sơn, TP Hà Tĩnh (nay là xã Đức Hà, huyện Đức Thọ), 82 tuổi, tốt nghiệp thứ 29 trên 30 học sinh trường Thanh Niên Ngee Ann ty, bang thứ 12 (1900) 1999), được coi là một sự kiện hy hữu trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Được bổ làm Huấn đạo huyện hương sơn.
            40. Đoàn đến, xã Đức Đức, huyện Tuy Nguyên, tỉnh Bình Định, khoa thi Bình Định thứ 12, khoa thi Quý Mão thứ 15, khoa thi Thành Thái thứ 15 (1903).
            41. Đoàn Ngung, người xã Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, 38 tuổi, đỗ thứ sáu trong số 60 học sinh trường Hà Nam năm Bính Thìn thứ mười tám (1906).
            42. Một nhóm như Chương, quê ở xã Hải Yến, huyện Tiên Lộc, tỉnh Hưng Yên, 28 tuổi, năm Nhâm Thìn thứ 24, được nhận vào thứ 24 trong số 50 học sinh trường Hà Nội ở thành phố Hà Nội thứ 18 ( 1906).
            43. Đoàn Vỹ, người Y Nhân, huyện Thanh Trì Hà Nội (con Đoàn viên), 26 tuổi, thứ 35/50 khoa Hà Nam, khoa thi Bính Ngọ, thành phố thứ 18 (1906)).
            44. đoàn quân, xã do quan, huyện nam trực, tỉnh nam định, 21 tuổi, thi đỗ trường hà nam thứ 27/30. Cải cách lần thứ sáu (1912).
            45. Đoàn Đàm, xã liễu doi, hà nam huyện thanh liêm, 25 tuổi, thi vào trường hà nam hạng 29/30. Cải cách lần thứ sáu (1912).
            46. Đoàn Đình Chi quê ở xã Đạo Lãng, huyện Vĩnh Lai, tỉnh Hải Dương. 24 tuổi, đỗ thứ 24 trong 32 người của khoa Thừa Thiên khoa thi Ất Mão khoa Ất Mão (1915). Được bổ làm quận thứ ba Pingxi. Cha con ông là Duẩn Tinggui, Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm phó giáo sư Đại học Ninglannan, và em trai là Duẩn Tingfang, cử nhân thương mại (1918).
            47. Đoàn Thắng, người xã Hội An, huyện Thiên Lư, tỉnh Hưng Yên, 24 tuổi, đỗ thứ 21/40 khoa thi Hội trường Hà Nội – Khoa thi Nam Ninh, khoa thi Ất Mão, khôi nguyên thứ 9 (1915) .
            48. Đoàn đình phương, xã đạo lang, huyện vĩnh lai, tỉnh hải dương, 29 tuổi, đỗ thứ 9/29 học sinh trường thừa thiên năm con ngựa. Ngày tận thế thứ ba (1918). Ông là em ruột của Đoàn Đình Chi.
            49. Các tài liệu trên được trích từ cuốn sách “Guoxue Xiangkelu” của Cao Xuande, một học giả của Nho giáo. Dịch sang tiếng Hán – NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, bổ sung một số sách “Việt Nam học” của Ngô Đức Thọ – NXB Văn học 1993 và “Sách sứ Việt Nam” Một số tài liệu tham khảo và đầu sách do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 1996 Xã hội…

              1. Đoàn văn phương quê ở xã vi bắc, huyện lượng xương, tỉnh thanh hóa. Khoa thi Hội trường Thanh Hóa năm Minh Mạng thứ 9 (1828), đỗ thứ 6 trong 11 người. Sau trở thành tam quận.
              2. Đan Chân, thị trấn Hải Yến, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hưng An, thi đỗ lần thứ 29 trong số 56 học sinh trường Hà Nam vào năm Thanh Hải Thông Khánh thứ hai (1887).
              3. Xin chào!

                Với thời gian nghiên cứu, sưu tầm có hạn, chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc một sốsơ bộ về tộc họ Đoàn văn khảm đã tồn tại và phát triển trong khoảng 1000 năm. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta hẳn là Đoàn Văn Khang. Cho đến nay chúng ta không có tư liệu về một họ Đoàn nào khác lớn hơn họ Đoàn Văn Khâm xưa. Ngoài ra, chúng tôi cũng liệt kê 42 nhánh họ khác và họ Dogan đã lan rộng khắp đất nước từ 400 đến 700 năm trước. Những nhánh và chi này có thể là hậu duệ của Đoàn văn kham cổ đại, nhưng cũng có thể thuộc về một họ khác do chúng tôi không liên hệ được và cũng không có tư liệu xác đáng. Tất nhiên có nhiều chi khác cũng rất lâu đời nhưng không được liệt kê ở đây. Chúng tôi cũng liệt kê 20 vị tiến sĩ Nho học họ Đoạn Nam từ đời Trần đến đời Nguyên, và 54 Nho sĩ từ đời Nguyên đến đời Nguyên. Chúng ta không có tài liệu nào ghi họ Dư An đỗ tiến sĩ đời trước nhà Nguyễn.

                Việc đưa các danh nhân dòng họ Du’an hiện đại và một số nhân vật nổi tiếng hiện đại vào gia phả rõ ràng là thiếu sót, nhưng đây là sự sắp xếp có chủ ý của chúng tôi, đồng thời cũng là hy vọng, hy vọng có thể tìm thấy các danh nhân đã khuất của họ và đưa vào gia phả của họ , bây giờ bất cứ ai, bất kể địa vị, có thể tìm thấy một vị trí trong gia phả của mình. Có như vậy con cháu họ Đoàn mới hiểu rõ hơn về tổ tiên mình, và sẽ dựa vào những tư liệu ít ỏi mà chúng tôi ghi nhận được để đóng góp trong việc tìm hiểu, sưu tầm, bổ sung, phụng sự, v.v., để truyền thừa thành công. Dòng họ. Thưa các bạn Họ Duẩn Việt Nam có thể ngày nay có ông tổ không cùng họ, mặc dù ngày xưa cùng họ. Vì vậy, con đường về nguồn là một hành trình gian nan, cần sự chung sức của nhiều người trí, có tài, sẽ mất nhiều thời gian nhưng với đặc điểm của mình, tập hợp được đội ngũ của chúng ta. Liên kết cây gia đình và chỉnh sửa tiểu sử của từng gia đình.

                Hãy cùng chúng tôi thực hiện những việc sau:

                1. Sưu tầm tư liệu về dòng họ Du An trong thư tịch cổ quốc gia, di tích dòng họ nằm rải rác trong làng.
                2. Số liệu thống kê về các phân chi, chi và nhánh mà chúng sinh sống trong làng, cho dù nguồn gốc đã biết hay chưa biết. Trên cơ sở phối hợp, nghiên cứu, đối chiếu tư liệu của các chi, họ có quan hệ họ hàng với nhau trong phạm vi một xã, một huyện, một tỉnh hoặc các tỉnh có liên quan để từ đó lập ra gia phả của họ. Việc thống kê chi đi đôi với việc sưu tầm danh nhân, gia phả của các danh nhân để sau này chỉnh lý sử.
                3. Hà Nội là nơi sinh sống của hầu hết các họ Đào An trong cả nước, nhất là từ miền Trung trở ra, trong đó có thể một số là hậu duệ của các vị tổ họ Đào An thời kỳ lập quốc như chúng ta biết hiện nay. Chúng tôi chưa biết. Hà Nội cũng là nơi tích lũy nhiều tư liệu về lịch sử dân tộc, về họ tộc và có nhiều hiện vật để chúng ta nghiên cứu về chúng. Chúng tôi đề nghị: Từ mọi người ở đây hôm nay, hãy mở rộng giao lưu với những người cùng họ, và khuyến khích mọi người: Một mặt, nghiên cứu và thu thập những thông tin nói trên về họ Dư An. Đồng thời liên hệ với quốc gia gốc, thông báo cho họ về họ của họ và những kiến ​​thức mà họ có được về họ Đoàn.

                  Hiện nay, ở nhiều làng, xã ở Việt Nam, nhất là những nơi được cho là cội nguồn của họ Đào An hoặc có các nhánh họ Đào An sinh sống lâu đời, còn rất nhiều gia phả, tư liệu Hannon, di sản văn hóa về đình Đào An chưa được phát hiện, sưu tầm và khai thác. Để đạt được điều này, cần phải thúc đẩy hơn nữa việc thành lập các ủy ban liên lạc họ Duo’an ở các tỉnh và khu vực trọng điểm mà gia đình Duo’an cùng chung sống. Ban liên lạc Đoàn cần người có công việc ở tỉnh, huyện tham gia, tăng số vị trí trong Ban liên lạc, nhưng cần cán bộ có năng lực, năng nổ, nhiệt tình, tổ chức thêm người làm việc này, đồng thời đi đến nơi cần thiết để thu thập thông tin về chúng. Chúng tôi khuyên bạn nên đề cử những cá nhân có trình độ và nhiệt tình, thường trú trong nước và tích cực tham gia vào các công việc của địa phương.

                  Mong muốn của hầu hết người Dao là tìm hiểu về cội nguồn tổ tiên và truyền thống quý báu của gia đình. Để làm được điều này, dòng họ Dogan cũng như nhiều dòng họ khác phải bắt đầu từ gia phả của chi phụ rồi đến gia phả. Từ gia phả của các chi họ đời thứ 4 và đời thứ 5, chúng tôi thử liên hệ với các chi họ cùng dòng họ trong làng, lần về nguồn gia phả để tìm về nguồn gốc gia phả. Họ có nhiều mạng sống. Chúng tôi đề nghị các bạn tích cực hỗ trợ công việc viết gia phả, trực tiếp hoặc thông qua tổ chức viết gia phả, đồng thời thu thập thông tin phong phú về họ Đoàn. Đó là cách tốt nhất để gia đình Dorn của chúng ta kết nối thành công. Hiện nay, nhiều gia phả ở nông thôn muốn làm gia phả, nhưng “không có tâm”, không được sự ủng hộ của Ban liên hợp tỉnh bạn và bà con có năng lực, trình độ ở Đại An. Các thành phố và thị trấn, họ sẽ gặp khó khăn khi thực hiện công việc của mình. Tôi hy vọng bạn sẽ chăm sóc tốt vấn đề này.

                  Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý vị đã và đang tiếp tục hợp tác với Ban liên lạc dòng họ Duoan để hoàn thành việc khai nhận di sản và tìm cội nguồn của dòng họ, đồng thời góp phần phát huy văn hóa quý báu của dòng họ.

                  Xin chân thành cảm ơn.

                  Ban thư ký

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button