Hỏi Đáp

Cảm nhận của em về truyện ngắn Làng (6 mẫu) – Văn 9

Cảm nhận của

6 bài phê bình đầu tiên về truyện ngắn Đất Nước của Kim Ranh, với 2 dàn ý chi tiết. Qua đó giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận rõ hơn tình yêu quê hương đất nước ở nhân vật ông Hai chân thành, sâu sắc.

Qua truyện ngắn Làng Kim Lan, chúng ta hiểu và cảm nhận được tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chi tiết mời các bạn chú ý theo dõi bài viết dưới đây, nắm vững thêm nhiều từ vựng trong Tài liệu 9 và học ngày càng tốt hơn nhé.

Đại cương truyện ngắn Làng Kim Kỳ Lâm

Đề cương 1

I. Lễ khai trương

  • Cây cây nào cũng phải cần mẫn, cần mẫn hút sức sống từ lòng đất, để tỏa ra màu xanh của sự sống và đơm hoa kết trái. Tác phẩm văn học cũng vậy: tác phẩm nghệ thuật phải “bắt rễ từ cuộc sống đời thường” thì mới tạo nên sức sống cho tâm hồn con người.
  • Công việc ở nông thôn, nhà văn kim uni đã làm được.
  • Hai. Văn bản:

    1. Giải thích

    -“Bắt nguồn từ cuộc sống hàng ngày của mọi người”

    • Cuộc sống hàng ngày là những gì diễn ra xung quanh chúng ta.
    • Đó là mảnh đất tươi tốt nuôi dưỡng và thổi sức sống cho các tác phẩm nghệ thuật. Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống và phải bắt nguồn từ cuộc sống của con người.
    • – “Nghệ thuật mới tạo nên sức sống cho tâm hồn con người”: Nhà văn gửi gắm tâm tư, tình cảm, thông điệp, suy ngẫm về cuộc đời vào mỗi tác phẩm văn học. Đến lượt mình, văn học lại tác động đến tâm hồn con người, làm phong phú tâm hồn con người bằng những tình cảm, suy nghĩ, ước vọng, lẽ sống, chân, thiện, mỹ…

      Tóm lại, tác phẩm văn học bắt nguồn từ cuộc sống và làm cho đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú và tốt đẹp hơn.

      2. Bằng chứng

      A. Truyện ngắn “Làng” Bắt nguồn từ cuộc sống thường nhật của người dân

      Chính cuộc sống và tâm tư tình cảm của người nông dân những ngày đầu kháng chiến chống Nhật là mảnh đất để công việc nông thôn “bén rễ”.

      • Có những người nông dân nghèo như ông Hai, trước cách mạng làm nô lệ cho Tây, bị người khác áp bức, có cách mạng mới biết sống tự do. Họ yêu quê, yêu nước, yêu cách mạng, yêu kháng chiến
      • Pháp trở lại, nông dân trở thành dân quân du kích bảo vệ tổ quốc, nhiều người phải tản cư theo chủ trương kháng chiến.
      • Trong thời kỳ chống Nhật, niềm tin rằng các ngôi làng sẽ đi về phía tây đã trở thành hiện thực ở đâu đó trên đất nước chúng ta. Hình ảnh những người sống trên những tin đồn thất thiệt, bị đẩy đến chỗ tuyệt vọng. Nhưng điều quan trọng là tình cảm, tư tưởng vẫn hướng về cách mạng và kháng chiến.
      • Như vậy, cuộc sống đời thường trở thành chất liệu để người nghệ sĩ sáng tạo nên tác phẩm văn học.

        Một tác phẩm nghệ thuật “tạo nên sự sống cho tâm hồn con người”.

        —Lao động nông thôn “tạo sự sống cho tâm hồn con người” tại nơi làm việc.

        • Yêu nước, yêu tổ quốc hãy để những người nông dân như ông Hai đi từ bóng tối ra ánh sáng, tư tưởng đã đổi thay, cống hiến cho Tổ quốc, cho Tổ quốc, cho Tổ quốc, cho Tổ quốc, cho Tổ quốc. Mọi người.
        • Không chỉ ông nội, mà cả những con người trong tác phẩm, từ kẻ bắt nạt ngây thơ đến bà chủ nhà xấu xí, nhưng qua cách viết của kim uni, họ vẫn bộc lộ cảm xúc của mình. Tình yêu làng, yêu đất nước đã giúp các em biết sống đẹp hơn.
        • – Những công trình nông thôn đã “tạo nên sức sống tâm hồn con người” trong cuộc sống hàng ngày:

          • Từ hình ảnh người ông và những con người trong truyện, ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.
          • Tâm trạng luôn trong sáng, trọn vẹn và chung thủy trong mọi hoàn cảnh.
          • Một tác phẩm nghệ thuật có sức mạnh kỳ diệu mang lại sức sống cho tâm hồn con người. Vì vậy, truyện ngắn nông thôn không phải là thời đại để hiểu được tình cảm thiêng liêng yêu gia đình, yêu nước, yêu nước.

            Ba. Kết thúc

            • Truyện ngắn nông thôn của nhà văn Kim Lan thực sự là một tác phẩm có giá trị, một tác phẩm “bắt rễ từ cuộc sống đời thường, nghệ thuật mới tạo nên sức sống cho lòng người”.
            • Tác phẩm này không chỉ cho chúng ta thấy tài năng kể chuyện và khả năng phản ánh hiện thực của nhà văn Jin Woo mà còn mang đến những điều tốt đẹp, làm phong phú thêm tâm hồn con người.
            • Đề cương 2

              1. Lễ khai trương

              • Giới thiệu sơ lược về kim lân và phong cách viết của ông.
              • Truyện ngắn giới thiệu làng quê.
              • 2. Nội dung bài đăng

                Một. Thành phần và tiêu đề:

                • Viết năm 1948, là truyện ngắn về người nông dân trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
                • Tên làng rất khái quát, chỉ nông thôn Việt Nam, gợi nhớ về một làng quê mộc mạc với những người nông dân chân chất, cần cù, khơi dậy tình yêu thương, gắn bó sâu lắng trong tâm hồn mỗi người. người
                • b. Nhân vật ông Hai trước khi nghe tin giặc đuổi về làng:

                  • Tình yêu và sự gắn bó với làng quê.
                  • Yi Xinxiang khoe làng khắp nơi cho vơi nỗi nhớ, anh vui vẻ kể về làng Youshi, tự hào về ngôi làng có truyền thống cách mạng.
                  • =>Tình yêu quê hương vô bờ bến và niềm tin sắt đá vào cách mạng.

                    c.Khi ông Hai nghe tin trong làng có người theo giặc:

                    • Bàng hoàng, đau đớn, không tin làng theo giặc, mong điều mình nghe không lầm.
                    • Tại sao khi nhận được câu trả lời, anh như bị rút cạn tất cả sức lực, niềm hy vọng và tình yêu làng, anh xấu hổ, anh đau đớn tưởng như mình không bao giờ đau nữa. Cay này =>;khóc.
                    • Anh đau, ngại ra ngoài gặp ai, cáu bẳn, cục cằn với vợ con, lăn lộn rồi trở nên mẫn cảm với mọi cuộc nói chuyện, sợ hãi. Sợ bị đuổi đi trong tủi hổ,…
                    • Quyết không về làng, dù yêu làng đến đâu làng cũng phải theo giặc, gây thù chuốc oán.
                    • =>Ông là người biết phân biệt đúng sai, lòng kiên trung với cách mạng không thay đổi, thật đáng khâm phục.

                      d.Tâm trạng của thầy Hải khi nghe sửa bài:

                      • Vui mừng khôn xiết, anh như được sinh ra lần nữa.
                      • Hào hứng kể chuyện nhà chị bị giặc đốt, chứng tỏ sự hy sinh của chị cho cách mạng.
                      • Xung quanh chỉnh sửa, bảo vệ ngôi làng và bản thân.
                      • 3. Kết luận:

                        • Hãy nói lên suy nghĩ của bạn.
                        • Cảm nhận của em về truyện ngắn đồng quê

                          Xem Thêm : Giáo án Văn 10 bài Hồi trống Cổ Thành (La Quán Trung)

                          Nhà văn Kim Rạnh là nhà văn nông dân, nông thôn nổi tiếng của Việt Nam. Các tác phẩm của anh luôn mang lại cảm giác gần gũi, giản dị, gắn liền với hình ảnh con người, làng quê Việt Nam. Đến với truyện ngắn “Làng”, qua hình ảnh ông Hai ta thấy được một người nông dân Việt Nam chất phác, chân chất, yêu quê hương, yêu nước.

                          Nhân vật chính của truyện là ông nội Hải được tác giả Kim Lan miêu tả chân thực, ông có một tình yêu quê chân thành và một tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt. Một cốt truyện phức tạp phát triển khi gia đình anh phải sơ tán vì quân đội Pháp đến chiếm đóng ngôi làng. Mặc dù không ở lại, nhưng trong lòng anh luôn nhớ ngôi làng này và luôn lắng nghe nhiều tin tức khác nhau từ Làng Youshi của mình. Trớ trêu thay, anh nghe tin Yushicun của mình đang rình rập kẻ thù. Đau đớn và xấu hổ, ông Hai không tin vào tai mình khi nghe tin làng dời về phía Tây. Tình yêu làng không bao giờ thay đổi, tình yêu ấy là nỗi nhớ khi xa cách, là nỗi nhớ đau đáu đào mương đắp đê cùng anh em trong làng… Nhưng giờ đây, ông Hai phải lựa chọn giữa tình yêu. yêu làng, yêu nước. Và khẳng định chắc nịch rằng “làng thì yêu thật, làng thì theo Xi để trả thù”. Vì vậy, niềm tin vào ánh sáng của cách mạng, vào người ông cố luôn mạnh mẽ nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù bị đè nặng bởi tình yêu thiêng liêng quê hương chôn rau cắt rốn. Sự lựa chọn này thể hiện rõ tình cảm, niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với Đảng. Cuối cùng, khi nghe tin cải chính, ông Hai mừng đến phát khóc, nghe tin làng mình không những không theo Tây mà còn kiên quyết đứng lên đấu tranh.

                          Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Rân đã thể hiện rõ nét và chân thực phẩm chất, niềm tin của người nông dân Việt Nam thời chống Pháp. Tình huống truyện đặt các nhân vật trước sự lựa chọn khó khăn. Tình yêu nào cũng thiêng liêng và đáng trân trọng, đặc biệt là tình yêu quê hương đất nước. Nhưng trớ trêu thay, khi hai thứ tình cảm thiêng liêng nhất ấy được đặt lên thì người nông dân chất phác, hiền lành lại phải lựa chọn. Cuối cùng, lòng yêu nước chiến thắng tất cả. Ông Hai đúng là người nông dân chân chất, là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Khi rời xa quê hương, ông luôn tự hào về những tháng ngày cùng anh em làm việc đồng áng, đào mương, đắp đập… Dù xa quê hương nhưng ông luôn mong chờ ngày được trở về. trở lại. Nhưng khi nghe tin làng đã đầu hàng giặc, niềm tin sụp đổ khiến ông vô cùng đau đớn và xấu hổ. Khi nghe tin làng di chuyển về phía Tây, ông đã “nghẹn ngào nước mắt. Da mặt tê dại” vì xấu hổ tột độ. Anh xấu hổ vì thấy mình xuất thân từ một làng quê bị gán cho là kẻ thù, xấu hổ vì lòng kiêu hãnh của một người rất yêu nước nhưng quê hương lại phản cách mạng. Qua cuộc trò chuyện với các cháu nhỏ, ông thứ hai càng củng cố niềm tin vào đảng và Bác Hồ. Khi nghe tin về sự cải chính, anh ấy đã khóc vì sung sướng. Có lẽ bình thường khi nghe tin nhà bị cháy, người ta phải xót xa, xót xa, xót xa cho tài sản của mình. Tuy nhiên, người đàn ông thứ hai thì khác, anh ta liên tục khoe rằng ngôi nhà của mình đã bị thiêu rụi. Tưởng chừng vô lý nhưng khi đặt vào hoàn cảnh của nhân vật thì lại vô cùng hợp lý. Ông Hai muốn khoe nhà ông bị đốt để chứng tỏ làng Hữu Thạch quê ông không theo giặc. Kết quả là, những mất mát cá nhân bị lãng quên để nhường chỗ cho niềm tự hào của thị trường dầu mỏ.

                          Qua tác phẩm này, nhà văn Kim Lan đã khắc họa chân thực và nổi bật hình ảnh ông Hai, người đại diện cho nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Họ là những con người rất giản dị và chân chất, nhưng ẩn sau đó là một tinh thần yêu nước sâu sắc. Cách mạng và cuộc kháng chiến đã đem lại cho nông dân những hiểu biết mới, tình cảm mới và niềm tin vững chắc. Tình cảm truyền thống của người nông dân bao thế hệ yêu quê hương đã dậy lên tình cảm yêu nước sâu sắc. Đây cũng chính là tiền đề tạo nên sức mạnh của con người, nhằm chiến thắng và đánh bại mọi kẻ thù xông tới.

                          Tác giả kim đơn vận dụng một cách sáng tạo và thành công cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách miêu tả chân thực và tài tình diễn biến tâm lý nhân vật. Tác giả để nhân vật của mình trải qua những đấu tranh tâm lý, để họ có những suy nghĩ và lựa chọn mang tính thời đại cho câu chuyện. Truyện ngắn “Làng” cũng rất thành công trong việc khắc họa ông Hai, nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Dù là ngày ấy hay bây giờ, tình yêu quê hương đất nước vẫn luôn cần được trao truyền và tiếp nối.

                          Cảm nghĩ về truyện ngắn thôn quê của Kim Lan

                          “Làng”, hai từ ấy thật bình yên và thân thuộc. Đã có biết bao văn nhân, mực sĩ chỉ giếng nước, cây đa, con thuyền… là nói đến những người nông dân chất phác. kim uni là một trong những nhà văn viết truyện ngắn rất thành công và phát triển về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Rân, gợi cho người đọc những suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

                          Kim Lân là người rất am hiểu và có cảm tình với cuộc sống và con người nông thôn Việt Nam nên truyện của ông thường để lại ấn tượng riêng, rất đời thường và chân thành về đề tài này. Truyện ngắn của làng cũng ra đời trong những ngày đầu kháng chiến chống Nhật, được đăng lần đầu trên một tạp chí văn nghệ ở Chiến khu Việt Nam năm 1948. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu của Youshicun. Với sự đánh tráo quan niệm, tư tưởng, ông Hai đã trở thành một điển hình nông dân Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám.

                          Cũng như bao người Việt Nam khác, ông Hải có một mái nhà thân thương và gắn bó. Làng Chợ Dầu sẽ mãi là niềm kiêu hãnh và tự hào của ông. Anh ấy luôn khoe khoang về ngôi làng của mình, nói rằng những đức tính của nó là hoàn hảo. Ông cũng như tất cả những người nông dân Việt Nam khác đều quan niệm rằng “ta về ta tắm ao ta/Dày đục ao nhà”, đối với họ không có nơi nào đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn. TÔI. Trước cách mạng, mỗi khi nói về làng, ông lại ba hoa về cuộc đời của vị quan đứng đầu làng. Sau cách mạng, làng anh trở thành làng kháng chiến, anh có một cảm giác khác hẳn. Người ông thứ hai không còn khoe khoang về nguồn gốc của mình mà tự hào về cuộc cách mạng của quê hương và việc xây dựng làng chống Nhật ở quê hương. Ông khoe làng có “hố, gò, mương”, “có phòng thông tin sáng sủa, khang trang nhất huyện, đài truyền thanh cao như ngọn tre, chiều chiều cả làng đều nói”. để nghe bằng loa phóng thanh.” “Thấy”… Khi kháng chiến bùng nổ, anh không còn cách nào khác là phải rời làng. Những ngày buộc phải rời làng, anh cứ nghĩ về nơi ấy, anh em và đồng đội trong tay, Người muốn “đào đường, đắp đê, Đào hào, nhặt đá…”

                          Ở nơi sơ tán, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi, mong ngóng tin tức từ làng quê cho vơi đi nỗi nhớ quê hương. Trong lúc chờ tin làng, tin vui chiến thắng vang khắp nơi khiến ông mừng lắm, “dũng khí nhảy cẫng lên”. Khi biết tin từ những người phụ nữ tản cư rằng làng Youshi đang theo dõi kẻ thù, anh ta vô cùng kinh ngạc: “Cổ họng của ông lão hoàn toàn bị chặn lại, và khuôn mặt của ông ấy tê liệt. Ông già không nói một lời nào, như thể ông ấy không thể’ Không thể thở được.” Khi nghe chuyện không thể không tin vào điều xấu khi sự việc sáng tỏ, niềm tin và tình yêu làng của anh như vỡ vụn. Anh “cúi đầu”, đánh trống lảng, đi như một kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, tôi càng nghĩ càng xấu hổ vì chúng “bị người khác hắt hủi, khinh bỉ”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng ông đếm tất cả mọi người và không tin rằng họ đã tham gia vào kẻ thù. Liên tục mấy ngày, hắn không dám đi đâu, lúc nào cũng bị ngôi sao đáng sợ vây quanh, thường xuyên bị chấn động. Những ngày này, mâu thuẫn nội tâm của ông nội nam nhân ngày càng gay gắt, càng ngày càng trầm trọng. Ông đã từng có ý “về làng”, nhưng ông dứt khoát “về làng là bỏ đấu tranh, bỏ cố nhân”, “làng là yêu, làng là theo tây, cả làng phải hận”. Dù có quyết định này nhưng anh vẫn rất buồn. Mỗi bước đi của ông đều chứng tỏ tình yêu quê hương của ông đã hòa vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó với nó suốt đời bằng những suy nghĩ và hành động của mình. Cảm xúc của ông về chiến tranh và ông lão cảm động nhất là khi ông thổ lộ nỗi lòng với đứa con thơ ngây: “Cha con theo chiến trận, theo lời bố phải không?” Bộc lộ nỗi lòng, trút bầu tâm sự và an ủi chính mình. Đồng thời cũng truyền tinh thần yêu nước cho con trai, khẳng định tình cha con đối với Công cuộc kháng chiến, cố nhân vẫn giữ nguyên.

                          Bao nhiêu khổ đau, bao nhiêu âu lo, tin thị trường dầu chạy theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong lòng anh như muốn vỡ òa. Anh liền chạy về khoe với chú, khoe với bất cứ ai anh thấy rằng mình đã đốt nhà, như để chứng tỏ rằng làng mình không một lòng theo giặc. Đối với ông Hai, cũng như những người nông dân khác, trâu, ruộng, nhà cửa đều rất quý, nhưng thà mất tất còn hơn mất nước, ý chí này đã trở thành truyền thống tốt đẹp. Vẻ đẹp của dân tộc ta.

                          Cách mạng và Kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại cho giai cấp nông dân những nhận thức và tình cảm mới. Nhờ đó, họ hăng hái tham gia kháng chiến, tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng và các đồng chí lãnh đạo. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm truyền thống tốt đẹp của người nông dân Việt Nam, tình yêu quê đã trỗi dậy thành tinh thần yêu nước. Sự hòa quyện, gắn bó giữa yêu nước với yêu nước là nét mới của ý thức quần chúng nông dân và cách mạng trong thời kỳ văn học chống Pháp.

                          Với kết cấu ngắn gọn, “Chuyện làng” xoay quanh ông Hai, một nhân vật yêu quê để lại nhiều ý nghĩa sâu sắc trong lòng người đọc. Làng văn Kim Lan đã tạo nên hình ảnh ông Hai với phẩm chất tuyệt vời của người nông dân. Đồng thời, tác giả khéo léo tạo ra những tình huống thử thách bộc lộ chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Tác giả sử dụng những suy nghĩ phức tạp và giằng xé để miêu tả cụ thể tay nghề kỳ lạ trong trái tim của các nhân vật. Tác giả đẩy các tình tiết lên cao trào rồi kết thúc nhẹ nhàng, hay và vui vẻ, tạo sự thích thú, bất ngờ cho người đọc, người nghe. Phương ngữ địa phương giản dị và khiêm tốn, cách đối thoại và giao tiếp gần gũi với những người nông dân, cùng với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ, khiến cho bài viết của Jinlan vừa gần gũi vừa sâu sắc.

                          Nhân vật ông Hai đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người, để lại trong lòng người đọc nhiều vẻ đẹp, tình yêu thương, sự trân trọng, cảm phục. Tình yêu quê hương truyền thống của ông Hai đã trỗi dậy thành tình yêu quê “suối chảy ra sông, sông chảy ra Jiangwanga, và sông Volta đổ ra biển…”. Thông qua nhân vật ông Hai chuyển từ cuộc đời thực sang làm nông dân với những phẩm chất ưu tú, tinh thần yêu nước của nhân dân Trung được thể hiện sinh động trong cuộc kháng chiến hào hùng của nhân dân.

                          “Làng” trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Oo Ni đã thể hiện thành công những thay đổi mới trong quan niệm, tình cảm của người Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác, yêu quê hương đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước. Mỗi chúng ta hãy noi gương các anh và ngày càng yêu Tổ quốc hơn.

                          Cảm nhận truyện ngắn nông thôn của Kim Kỳ Lân

                          Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Thái, sinh năm 1920, quê ở Bắc Ninh. Là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông đã đăng báo trước Cách mạng tháng Tám. Jinlan là người hiểu biết và có tình cảm đặc biệt với nông dân và nông thôn, cô ấy viết nhiều hơn về cuộc sống nông thôn và nỗi khổ của người nông dân. Truyện ngắn Đất Nước là một trong những truyện ngắn hay nhất được Kim Lân viết trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là tác phẩm đặc sắc viết về tình cảm yêu nước của ông, xuất phát từ tình yêu quê hương sâu nặng, thương bà. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tình cảm và ý nghĩa này rất phổ biến trong mỗi người nông dân Việt Nam.

                          Ông yêu làng chợ dầu của mình nhiều, tha thiết đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về làng mình. Nói về làng Youshi, tôi không biết người nghe có chú ý hay không, nhưng anh ấy đã nói rất nhiệt tình. Anh kể, ở làng anh nhà ngói san sát dày đặc, đường làng lát đá xanh, mưa từ đầu làng đến đuôi làng, bùn không dính gót chân. Tháng năm mùa phơi cỏ khô lúa cao, không có lấy một hạt thóc, ông vẫn tự hào mình là trưởng thôn cả đời. Ông tự hào và vinh dự vì nét độc đáo và bề dày lịch sử của làng mình. Nhưng khi cách mạng thành công đã giúp ông nhận ra sai lầm của mình. Từ đó về sau, mỗi khi về làng, ông lại khoe về cuộc nổi dậy thần tốc và những ngày tập trận, nơi ông già tóc hoa râm cũng chống gậy luyện tập. Anh ấy cũng cho thấy các hố, gò, hào, v.v., nhiều thứ trong số đó vẫn còn nguyên vẹn.

                          Chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo, giặc tràn vào làng, ông buộc phải rời làng. Rời làng anh mang theo tất cả nỗi nhớ. Vì vậy, trong khi di dời, anh ta đã bị tra tấn và dày vò. Chắc hẳn, cả cuộc đời và số phận của ông đã gắn liền với những niềm vui và nỗi buồn của ngôi làng này. Tự hào, yêu mến nơi “chôn rau cắt rốn” đã trở thành truyền thống và tâm lý chung của tất cả nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu đất nước của họ bắt nguồn từ những điều bình dị như: cây đa, ôsin, sân đình… và nâng tầm nó lên: tình yêu đất nước. Nói đến đây, chúng ta chợt nghĩ đến câu nói nổi tiếng bất hủ của nhà văn Ilya Ellenbua: “Yêu quê hương, yêu quê hương và yêu quê hương trở thành yêu nước”. Mấy ngày ở Thắng Lợi thôn, hắn cả ngày đi tổng bộ, nghe tin tức từ thôn Hữu Thạch, nghe nói cả thôn đều theo hắn đi về phía tây. Cổ anh “nghẹt thở và da mặt tê liệt”. Ông lão vẫn im lặng, như không thở được. Anh vô cùng đau đớn và tủi nhục vì ngôi làng Youshi thân yêu của mình đã theo giặc. Ông chửi lũ theo tây: “Miếng cơm bay vào miệng chúng nó rồi bán nước như giống Việt gian làm nhục dân như vậy”. Kể từ lúc đó, anh không dám đi đâu, suốt ngày chui rúc trong nhà nghe hung tin: khi bà chủ nhà đến bảo không cho gia đình ở nữa, anh thấy cuộc sống như vậy là hoàn hảo”, anh Kinh kể. : “Còn về làng? Nhưng rồi ý kiến ​​này lập tức bị ông lão phản đối, bởi: “Nếu làng này yêu thật thì làng Tây Hạ phải hận”. Có thể nói, với ông, làng và nước giờ đã trở thành kẻ thù. Hai cảm giác này đã dẫn đến mâu thuẫn lâu dài trong lòng anh. Nhưng trong đó, Người đặt lòng yêu nước lên hàng đầu.

                          Phải có sự hiểu biết sâu sắc về con người, đặc biệt là tâm lý con người thì mới có thể diễn tả đúng tâm trạng nhân vật. Những ngày này, tâm trạng và cảm xúc của anh ấy thể hiện trong những cuộc trò chuyện của anh ấy với em út. Nói chuyện với tôi như thể bảo vệ ngôi làng của tôi. Anh hỏi tôi: “Anh ủng hộ ai?”. Cậu bé giơ tay mạnh dạn, rõ ràng: “Bác Hồ Chí Minh muôn năm”. Đó là tấm lòng của cha ông “Có chết cũng không dám mắc lỗi”.

                          Rồi lại có tin đính chính, làng anh không theo giặc. Lo lắng và xấu hổ đã biến mất. Thay vào đó là niềm vui và hạnh phúc. Anh chạy từ đầu làng đến cuối làng, khoe tin làng mình không còn truy đuổi giặc, khoe nhà mình bị cháy một cách sung sướng, hả hê: “Bác đâu rồi! Làm gì có thằng Tây! nó đốt nhà em rồi anh ơi! Ổn định!” Cháy! Trưởng thôn chúng tôi mới lên đính chính. Anh ấy nói… cái tin, cái tin chúng tôi sang Việt Nam để lừa mọi người. Dối trá! Tất cả đều là dối trá! Tất cả điều này là cố tình sai.” Thông qua sự khoe khoang của anh ấy, điều khiến chúng tôi cảm động là, Anh ấy không hề buồn hay buồn khi ngôi nhà của anh ấy bị cháy rụi. Niềm vui làng không theo giặc tràn ngập lòng ông. Mọi đau đớn, phiền muộn đều bị vứt bỏ.

                          Quả thật Kim Lân đã xây dựng rất thành công hình tượng ông Hai, một trong những nhân vật thời bấy giờ: giản dị, chân chất, tiêu biểu cho giai cấp nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Họ đặt tình yêu Tổ quốc lên trên tình yêu làng xóm. kim uni đã thành công trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật điển hình của mình. Lời nói của ông Hai là lời nói của nông dân lúc bấy giờ, trong đó có cả những lời bao dung: “Chú… dối trá! Tất cả đều là dối trá! Tất cả đều là cố ý sai trái”. . Diễn biến tâm lý của anh từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Tôi yêu ngôi làng này rất nhiều và khoe khoang về nó ở khắp mọi nơi. Khi hay tin làng bị nghi đầu hàng giặc, ông xót xa. Khi biết làng mình không theo giặc, ông vui mừng khôn xiết, thậm chí còn khoe khoang tin nhà mình bị thiêu rụi, sung sướng và hả hê. Trong việc xây dựng những chi tiết và miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật này, Kim Uni là một minh chứng cho tài năng của cô.

                          “Chuyện Nước” là tác phẩm viết rất thành công về tinh thần yêu nước, yêu nông thôn của người nông dân Việt Nam thời chống Pháp. kim uni đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm, chúng ta có thể hình dung được sự phản đối quyết liệt của nhân dân đối với pháp luật trong thời kỳ đó, và mọi người đều đồng lòng theo Người và Đảng kháng chiến đến cùng. Đây là lý do tại sao tôi đã thắng cuộc chiến.

                          Hãy cho tôi biết cảm nhận của bạn về truyện ngắn Làng Kim Kỳ Lâm

                          Kim Lân (1920-2007) quê Bắc Ninh, xuất thân trong một gia đình nghèo, đọc đến chương đầu tiên thì dừng lại và bắt đầu viết truyện ngắn năm 21 tuổi, với giọng văn chân chất, nhẹ nhàng, chan chứa tình thương dành cho đứa con trai lớn lên trên cánh đồng tình yêu quê hương. Tác phẩm của ông không nhiều nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là những tác phẩm viết về nông thôn và người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. Ruộng đất tuy đã được Ngô Đạt Đồ, Nam Thảo, Nguyễn Công Hoan và nhiều tác giả khác phát triển gần như hoàn chỉnh, nhưng trong tay Kim Lan, nó vẫn có những nét riêng, mới mẻ và hấp dẫn. Đó là bởi vì ngòi bút của Jinwu công phu, tỉ mỉ và sâu sắc, đồng thời chú ý đến vẻ đẹp và những thay đổi trong đời sống tinh thần của các nhân vật. Đặc biệt trong các tác phẩm của mình, mặc dù viết về sự nghèo đói và hiện thực tàn khốc của xã hội nhưng đây không phải là nội dung chính mà Jinlan muốn lên án hay suy ngẫm mà là điều anh mong muốn. Nghĩa là, qua các tác phẩm của ông, bao hàm cả tình thân tộc giữa người với người, tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước, vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam. đàn ông lúc bấy giờ. “Làng” là một trong những kiệt tác nổi tiếng của Cam Ranh trong văn học Việt Nam, qua đó ta có thể thấy được hầu hết những nét đặc sắc trong phong cách viết của Cam Ranh.

                          Viết năm 1948, là truyện ngắn viết về người nông dân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Tên làng là tên gọi chung, phổ biến ở nông thôn Việt Nam, gợi nhớ về một làng quê mộc mạc với những người nông dân chân chất, cần cù, đồng thời gợi lên sự yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi người. Cũng như bao truyện ngắn khác, Xóm này có cốt truyện, truyện xoay quanh hai tuyến truyện độc đáo: bắt đầu từ ông nội của hai người dân làng chợ Dầu, một người giàu tình yêu làng và có lòng yêu nước mãnh liệt, nhưng khi Từ Giặc khi chạy trốn thì nghe theo giặc, tưởng làng mình theo giặc khiến mình đau đáu, tình huống truyện thứ hai là khi nghe tin cải chính, diễn biến theo sự phát triển của tình cảm. Truyện được kể với giọng văn êm đềm, giản dị và chân thật, ngôi thứ ba giúp người đọc nhìn rõ vấn đề cốt truyện từ nhiều khía cạnh, khiến câu chuyện trở nên tinh tế, liền mạch.

                          Nhân vật chính của câu chuyện là Erye, một người nông dân cần cù phải rời bỏ ngôi làng thân yêu nơi ông đã sinh sống hàng chục năm vì chiến tranh. Tình yêu và nỗi nhớ làng của ông được thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện, chẳng hạn như dù mệt hay khỏe ông luôn nghĩ về làng, khi nghĩ đến thì ông “nhìn tôi như nhìn một người”. . trẻ em. “Ông tự hào về những “đường đá xanh, mưa gió đi về làng, bùn không dính gót” của làng và ông cũng tự hào về cuộc sống của một vị quan cao cấp trong làng. , mọi thứ thuộc về anh ấy đều quý giá Tất cả đều đáng trân trọng. Ngay cả sau khi sơ tán, anh ấy vẫn quan tâm đến ngôi làng và khoe làng của mình ở khắp mọi nơi để giải tỏa nỗi nhớ. Anh ấy vui vẻ nói về làng Youshi, và trong một ngày với “Khởi nghĩa ở làng, ông tham gia làng từ tuổi tối” thể thao. “Khóa huấn luyện quân sự” có phòng thông tin to và sáng nhất vùng, chỉ riêng điều này thôi cũng đủ thấy trong lòng anh có một tình yêu quê vô bờ bến, một niềm tin sâu sắc vào cách mạng, thậm chí đã khiến anh phải ôm chầm lấy anh. chặt chẽ. Sự tin yêu và yêu thương của anh. Ở trong làng nhưng cuối cùng anh phải dứt áo ra đi về với gia đình.

                          Thế nhưng, khi vừa yêu quê, tin quê, trung thành với cách mạng, thì ông lại phải nghe một tin sét đánh làng chợ dầu của mình theo giặc, một sự thật quá tàn khốc khiến ông đau đớn, xót xa. và xấu hổ. Ngày nào ông cũng mong ngóng tin tức từ làng nên khi nghe tin giặc vào làng, điều đầu tiên ông nghĩ đến là trận đánh phải thật vang dội, làng mình có truyền thống kháng chiến. kẻ thù. Hắn không khỏi hỏi: “Vậy chúng ta có thể giết bao nhiêu người?”. Nhưng đau đớn thay, người phụ nữ thản nhiên ấy cũng tỏ vẻ bác bỏ, nói: “Tôi không thể giết người. Các làng phía tây họ còn giết gì nữa?” Không tin làng chợ dầu của mình Một mai theo giặc, mai kia phản cách mạng, phản giặc. .Ngay cả niềm tin không thể lay chuyển của anh bấy lâu nay. Còn gì đau đớn hơn bây giờ, dù có dùng dao cắt cũng không đau bằng. Kim Lan có năng khiếu miêu tả tâm hồn nhân vật xuất sắc, tâm trạng được thể hiện sinh động qua những chi tiết rất độc đáo, người đọc dường như cảm nhận được sâu sắc tâm trạng có lúc bàng hoàng, đau đớn của ông. “Cổ của ông lão bị chặn hoàn toàn, và khuôn mặt của ông tê liệt”, “Ông già im lặng, như thể ông không thể thở”, quả thực, tin tức này là một cú sốc lớn đối với ông lão, ông không thể tin được nó, đó là sự thật. Vì vậy hắn vẫn còn có chút hi vọng, cố gắng ăn cơm nếp, bao nhiêu sức lực tích tụ trong cổ họng, “Oa” một tiếng hỏi: “Có thật không, ca ca. Hay là…” Có lẽ hắn tin 80% đối với Chín mươi. phần trăm, vì vậy giọng nói của anh ấy rất yếu ớt, do dự và bối rối, và anh ấy cũng sợ người phụ nữ khác nói một lời, tất cả những điều này anh ấy vẫn có thể chắc chắn. Khi trở về làng, họ ngay lập tức biến thành bọt biển. Và lời khẳng định của người đàn bà ấy dường như đã vắt kiệt tất cả sức lực, niềm hy vọng và tình yêu của anh đối với ngôi làng này, anh xấu hổ, lòng anh quặn thắt, chưa bao giờ anh đau như thế. Một người kiên quyết, những năm tháng qua đi gần nửa cuộc đời, đã khóc “nhìn con mà tủi thân, khóc không dứt”, nghĩ đến cảnh gia đình bị hắt hủi, ông càng đau đớn, tủi nhục hơn. Hơn trăm ngàn lần. Vì quá yêu và bị tổn thương sâu sắc, tôi không thể chịu đựng được, đành phải tự làm nhục mình bằng cách “bó tay rít lên: chúng nó bay vô miệng ăn miếng cơm hay sao mà đi Việt Nam. giả bán nước”. Như thế này”, tiếng chửi là tất cả sự tức giận, phẫn uất và đau đớn của ông. Nỗi đau, nỗi nhục của ông mà chỉ ông mới hiểu, hành hạ ông, ông không dám ra ngoài gặp người, tính tình hung bạo, hay cáu giận. với vợ con… Gắt gỏng, trằn trọc, trằn trọc, ngủ không yên, rồi nhạy cảm với đủ thứ đàm tiếu, sợ bị đuổi đi tủi hổ… Tất cả những muộn phiền, đau đớn dày vò ông già đáng thương, không thể’ Không thể ở lại thôn này, không thể đi thôn Youshi? Nhị gia nghĩ như vậy, nhưng tình yêu cách mạng cùng kính trọng Hồ Bác không cho phép hắn làm như vậy, mặc dù hắn yêu thôn tận xương tủy , ông quyết không trở lại cái chốn tủi nhục ấy bởi “về Làng vừa bỏ kháng chiến vừa bỏ già. ‘ Anh ấy kiên quyết, ‘Ngôi làng thực sự thích nó. Nhưng nếu nước đi về phía tây, thì phải có sự phục thù”. Nhân cách của ông Hai thể hiện rất rõ ở đây. Ông là người biết phân biệt phải trái, kiên định với cách mạng. Nhân dân kính trọng.

                          Cuối cùng trải qua bao gian khổ, vì tưởng làng theo tây thật, cuối cùng làng cũng được phục hưng, hóa ra làng anh không theo giặc, làng anh vẫn trung thành với cố hương người của cách mạng, một làng quê yêu thương và nhớ nhung. Điều đó làm ông vui mừng khôn xiết, ông như được sinh ra lần nữa, “mặt buồn mọi ngày bỗng vui lên. Ông nhai trầu, mắt đỏ hoe chớp chớp,…”, ông mừng rỡ chia cho lũ trẻ món quà, vội vã đi để nói với chú thứ hai của chủ sở hữu. Khoe cái gì, anh khoe “Cháy nhà rồi anh ơi. Cháy hết rồi!”, chưa ai cháy hết nhà mà vui và phấn khởi như anh. Bởi nó chứng tỏ làng anh không theo giặc, người nhà anh hy sinh vì cách mạng, anh không phải là người Việt Nam, và điều đó đối với anh không thể hạnh phúc hơn, hạnh phúc hơn. Anh tiếp tục đắc thắng, không ngừng tuyên bố với mọi người: “Đồ dối trá! Không sao cả. Tất cả là cố ý!”, lấy lại lòng tự trọng và gột rửa nỗi nhục nhã mấy ngày nay. Anh vui, vì anh có thể tiếp tục tự hào về làng quê thân yêu, làng quê có truyền thống cách mạng, anh có thể tiếp tục khoe về làng quê mình, về những chiến công chống giặc,…

                          Truyện ngắn Làng Kim Lân đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam trong những năm kháng Nhật cứu nước với vẻ đẹp chân chất, giản dị, tấm lòng yêu làng, yêu quê hương, đất nước. , những chuyển biến sâu sắc, xúc động trong cuộc kháng chiến chống Nhật cứu nước và những cống hiến, hy sinh thầm lặng của họ cho cách mạng, như nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết: “Mọi vật, mọi vật như được ghi lại với bản sắc, tình cảm sắc sảo làm cốt lõi, với cốt lõi. Nếu chúng ta cho rằng văn học là lịch sử của tình cảm con người, thì Kim Lan quả thực là một nhà văn thực thụ theo nghĩa đó”. cũng đã có những đóng góp to lớn cho sự thành công của tác phẩm.

                          Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn nông thôn

                          Nhà văn Kim Lan là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ông là người có cuộc sống sâu nặng, gắn bó với làng quê, gắn bó với những người nông dân. Anh thường gắn tâm hồn mình với những trò chơi mang đậm chất nông dân như: thả diều, nuôi chim bồ câu, chọi gà, câu cá, chơi non bộ… Jin Qilin dường như đã hội tụ tất cả những gì thuộc về mình. Về người nông dân Việt Nam.

                          Xem Thêm : 5 Bài phát biểu tất niên cuối năm hay nhất, ngắn gọn nhất – META.vn

                          Nhà văn Kim Lan tuy ít tác phẩm nhưng mỗi tác phẩm của ông đều mang đến cho người đọc những cách hiểu mới mẻ, sâu sắc về hình tượng người nông dân.

                          Trong truyện ngắn “Cảnh quê”, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh một lão nông giàu lòng yêu nước, giản dị và chân chất. Nhưng khi cách mạng nổ ra, ông tuyệt đối trung thành với con đường giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

                          Hai nhân vật chính của tác phẩm ở làng là những người nông dân, những người ngay thẳng, thật thà và chăm chỉ. Anh ấy thường làm việc hoặc làm tốt ở quê hương của mình suốt ngày, không bao giờ nghỉ ngơi. Công việc luôn chân tay, nhưng anh ấy có niềm vui. Công việc đồng áng của người nông dân, cày, cuốc, cấy, gặt… bạn có thể làm bất cứ việc gì.

                          Ông may mắn được trải qua hai chế độ, từ phong kiến ​​đến cách mạng để thiết lập thành công chế độ mới. Trước đây ông không biết chữ, nhưng từ sau cách mạng, có chú nuôi, những người nông dân như ông cũng được đi học phổ thông và biết chữ…

                          Ông được coi là chủ nhân thực sự của đất nước, sở hữu ruộng đất của mình. Cuộc đời anh đã sang một trang mới, anh được cầm quyển vở, cây viết và biết viết… Anh rất vui và vô cùng biết ơn cách mạng và Bác Hồ Chí Minh.

                          Làng của anh Làng Liangyoushi là nơi anh sinh ra và lớn lên, nơi chôn rau cắt rốn của anh. Nhưng vì tản cư, anh phải tạm xa quê lên vùng kinh tế mới làm ăn sinh sống. Nhưng trong sâu thẳm trái tim, anh luôn khao khát quê hương, quê hương của mình.

                          Tình yêu thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn ông, nên dù đi đến đâu, mỗi câu chuyện của ông đều chứa đầy sự gần gũi và nhân ái không gì sánh được, giống như làng quê ông có cao bao nhiêu người vậy. Khu này làng anh được lát gạch xanh, mùa mưa không bị ô nhiễm từ đầu làng đến cuối làng, nếp làng anh thơm, ôi, thơm thật…

                          Ông nội yêu làng quê bằng tình yêu của người nông dân hiền lành chất phác, có lối sống và suy nghĩ giản dị. Vì thế khi đã yêu, nhớ làng, ông nhắc đến, đem khoe với mọi người cho thỏa nỗi nhớ làng.

                          Nhưng khi nghe tin sét đánh, làng anh, một làng chợ dầu nổi tiếng với nhiều đặc sản, nức tiếng anh hùng, vậy mà giờ đã đầu hàng, người trong làng giờ là người Việt, làm ăn toàn theo Tây. .. làm anh khổ sở. Anh cảm thấy cổ họng mình thắt lại, máu như đông lại, mở miệng cũng không thể nói nên lời.

                          Anh cúi đầu khiêm tốn bước đi, về đến nhà, anh nằm trên giường như người trúng độc, nước mắt chảy dài trên mặt, thỉnh thoảng không kìm được lại nhỏ xuống vài giọt. . Lời thề cay đắng.

                          Những ngày sau đó, anh sống cuộc đời đầy bi kịch, vợ con anh phải sống trong tủi nhục, sợ hãi. Người dân vùng kinh tế mới không cho anh ở, họ xa lánh gia đình anh.

                          Gia chủ đòi đuổi cả gia đình đi, vì không muốn mắc bẫy một người quê mùa làm tay sai cho giặc. Anh ấy đang đau. Anh rất yêu ngôi làng này, rất yêu và rất tự hào về nó, “Thời nào cũng yêu thật, nhưng theo làng về tây chắc là hận…”

                          Rồi trầm ngâm một lúc, anh thở dài ngao ngán: “Không biết dân làng các ông sao mà ngu thế để nó chịu nhục như vậy”. Những lúc túng quẫn không biết đi đâu, có lúc ông nghĩ đến một phương án, là trở về quê cũ, về nơi chôn rau cắt rốn.

                          Nhưng rồi anh gạt đi. Vì làng đã đi về phía Tây, nay người trong làng làm lưu manh chó chạy giặc, nếu anh sang đó làm lưu manh, phản bội tổ quốc thì anh sẽ không bao giờ quay lại nữa. Dù người ta có không ở đây, không cho anh ở, đuổi anh đi, anh cũng sẽ không bao giờ về quê làm ăn ở Việt Nam.

                          Thông qua nhân vật của mình, hai tác giả của Cẩm tú Vị ương đã dựng nên một hình ảnh người nông dân chân thực, một khi đã thức tỉnh theo cách mạng thì không gì lay chuyển được. Người nông dân tuy học thấp, hiểu biết ít nhưng một khi đã động lòng thì lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh, căm thù giặc của họ cao hơn bất cứ người trí thức nào.

                          Họ đặt lòng yêu nước, yêu nước lên trên tình yêu quê hương đất nước. Đây là bài học sâu sắc mà nhà văn Kim Lan muốn gửi đến chúng ta.

                          Rồi một ngày làng Youshi của anh được phục hồi, trưởng làng Youshi đi vùng kinh tế mới và nói với mọi người hãy yên tâm rằng làng anh vẫn còn liên quan đến cách mạng và Hồ Chí Minh, cha anh vừa mới chống lại Ông rất vui mừng và rất tự hào về chiến thắng vĩ đại của mình trong cuộc chiến chống lại kẻ thù.

                          Anh như trút được gánh nặng bấy lâu, sung sướng như đứa trẻ bị oan, nay được quà. Anh vui vẻ đi khoe với mọi người rằng thông tin này chỉ là bịa đặt, bịa đặt.

                          Khi người đọc hay tin làng đã được chấn chỉnh, họ như cảm nhận được niềm vui và sự xúc động của ông. Nhà văn Kim Ran hy vọng có thể truyền tải đến tất cả độc giả tình yêu của những người nông dân lao động Việt Nam dành cho quê hương thông qua các tác phẩm của mình.

                          Cảm nghĩ của em về công việc ở nông thôn

                          Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, kim lân được biết đến với những truyện ngắn đặc sắc viết về những thú vui dân gian tài hoa của người dân Kinh Bắc: chọi gà, săn chim, đấu vật… suốt đời. Trong ngòi bút của mình, nhà văn tài hoa viết rất ít và hầu như chỉ viết về con người quê hương Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, một làng quê nổi tiếng giàu đẹp, giàu truyền thống văn hiến. .

                          Lần này, Kim Lan đã thể hiện thành công hình ảnh người nông dân với truyện ngắn về làng quê, nhưng là người nông dân trong thời kỳ Kháng chiến cách mạng, tình yêu quê hòa quyện với tình yêu đất nước và con người. dân tộc. Tinh thần kháng chiến của nhân dân. Chuyện Làng được viết và in năm 1948 trên tạp chí Văn nghệ số đầu tiên xuất bản tại Chiến khu Việt Nam, và nhanh chóng trở thành một trong những truyện ngắn văn học thành công đầu tiên trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. thực dân Pháp (1946-1954).

                          Đối với người nông dân, nhất là nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, làng có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của họ. Nó gắn bó mật thiết với họ hàng ngày và trong suốt cuộc đời họ, kể cả sau khi chết. Vì vậy, từ bao đời nay, nỗi nhớ đã trở thành một thứ tình cảm sâu nặng, tự nhiên, thấm vào lòng người dân làng. Có rất nhiều câu ca dao rất hay về tình yêu quê hương và tự hào về nó. Thậm chí, có khi tình cảm này bị đẩy thành tư duy thiên vị, thành tư duy “cá nhân” hẹp hòi: “Ta về ta ta tắm ao ta, dẫu rằng ở nhà vẫn hơn”.

                          Nhân vật chính của truyện, tình yêu quê của ông lão không chỉ là một đặc điểm tâm lý tình cảm rất chung, tiêu biểu của mọi người dân làng, mà còn rất riêng và độc đáo. Đó là tính khoe làng của ông từ xưa đến nay. Với ông Hải, ngôi làng Youshi nơi ông ở thực sự không đâu sánh bằng và ông tự hào về điều đó: “Ông khoe những ngôi nhà mái ngói ở làng mình sôi động như cả tỉnh. Trước cách mạng, “mỗi khi đi xa về khoe làng, ông chỉ khoe cái kế sinh nhai của trưởng thôn. Anh ấy có vẻ rất tự hào vì có một phần như vậy trong làng. “Bây giờ làng mình có phòng tuyên truyền sáng sủa, khang trang nhất huyện, đài truyền thanh cao ngang nóc nhà, chiều cả làng đều nghe thấy”, ông cũng khoe. “ngày nổi dậy. Ẩn mình trong làng, anh ta là một phần của phong trào từ thời kỳ đen tối. ” Rồi ông chỉ cho “những hố, gò, mương của làng mình, và nhiều công trình chưa bị bỏ sót”.

                          Có thấy tình yêu quê hương đất nước của ông nội trở thành niềm đam mê thì mới hiểu được cảm giác của ông khi phải tản cư. Khi giao tranh lan rộng khắp vùng quê anh, chính quyền huy động các gia đình đưa người già, phụ nữ và trẻ em sơ tán. Trên thực tế, anh không muốn sơ tán chút nào. Vợ con đi vắng, ông ở lại với mấy anh dân quân năm bảy lần cử lên thúc giục nhưng ông vẫn ở lại. Anh ta nghĩ: “Ta ở làng này từ nhỏ, ông cố của ta đã sống ở làng này từ bao đời nay, giờ mình lại lâm vào cảnh này, chắc ta lại chạy đi mất”. người quan tâm đến quê hương.Tư tưởng và thái độ cũng là tư tưởng và thái độ của một công dân yêu nước.

                          Kim Ran đã hiểu và miêu tả một cách sinh động, cảm động đặc điểm tâm lý này của người nông dân, điều mà ít nhà văn nào có được, mặc dù đã có rất nhiều tác phẩm viết về sự gắn bó của người nông dân Việt Nam với ruộng đất, làng quê.

                          “Đồng quê” là một truyện ngắn có cốt truyện rất đơn giản, tập trung vào diễn biến tâm trạng của nhân vật chính là ông Hai hay còn gọi là cốt truyện tâm lý. Ngay khi câu chuyện bắt đầu, tâm trạng của ông Hai trong nơi lánh nạn bắt đầu: “Cứ mỗi tối, nhà sáng trưng, ​​bà hai ngồi thẫn thờ đếm tiền mua cua, mì tôm, bánh kẹo… Một cảm giác chạnh lòng. nỗi buồn trỗi dậy khiến ông bật dậy nói chuyện với chú hai, đêm nào ông cũng nói chuyện với người hàng xóm cũng là người nước ngoài để xua đi những ưu tư, vẩn vơ, nhất là khi bày tỏ nỗi nhớ quê hương. trong cuộc nói chuyện chỉ có chú hai nói, chú hai nghe, nhưng trên thực tế, chú hai cũng không quá quan tâm người mình nói có nghe mình hay không, ông chỉ là phát tiết tâm trạng, đặc biệt là để tưởng niệm người trong thôn. .Ông kể về làng với sự say mê và nhiệt tình lạ thường.Mắt ông sáng lên,gương mặt ông thay đổi và trở nên có sức sống.

                          Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Kì sâu sắc hơn, đặt nhân vật ông Hai vào tình huống thử thách, bộc lộ chiều sâu cảm xúc của nhân vật, đó là ông Hai bỗng nghe tin dữ: làng chợ dầu của ông theo kẻ thù.

                          Tin tức đến vào một buổi chiều khi anh ấy đang phấn chấn vì anh ấy đã nghe rất nhiều trên các tờ báo rằng chúng tôi đã thắng cuộc chiến. Tin dữ đến quá đột ngột khiến ông bàng hoàng đến mức “ông cụ gân cổ, da mặt tê dại, lặng đi như không thở được”. Khi lấy lại bình tĩnh, anh cố gặng hỏi, hy vọng tin đó không phải sự thật. Nhưng sứ giả đã nói tốt với anh ta, và nói rằng họ mới ở đó đi lên, vì vậy anh ta không thể nghi ngờ điều đó. Kể từ giây phút đó, anh chìm trong nỗi đau và sự xấu hổ ngày càng chồng chất. Trước đây tôi càng tự hào, tự hào về làng mình bao nhiêu thì bây giờ tôi lại càng đau đớn, xấu hổ bấy nhiêu. Anh ấy không đi chơi cả ngày cả ngày. Anh chỉ loanh quanh trong căn phòng hẹp, lắng nghe động tĩnh bên ngoài: “Đám đông tụ tập, anh để ý, xa xa có mấy tiếng cười nói, anh ngập ngừng. Anh luôn suy nghĩ, như thể người ta đang bàn tán xôn xao Nó. Mỗi lần nghe thấy tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt, tiếng da cam, anh lại lùi vào một góc phòng và im lặng. Đừng nói nữa!”. Tác giả miêu tả rất cụ thể và sâu sắc cảm giác nặng nề đã chuyển thành cảm giác sợ hãi đầy ám ảnh.

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button