Hỏi Đáp

Canh tác nương rẫy của một số dân tộc thiểu số ở tây nguyên và

Nương rẫy là gì

võ đại hải, trần văn côn,

Nguyễn Xuân Chương và cộng tác viên

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam

Cao nguyên miền Trung gồm 4 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng, với tổng diện tích 57.373 km2, dân số 4.058.512 người (số liệu năm 1999). Đây là mảnh đất có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng của cả nước. Tây Nguyên có điều kiện tự nhiên ưu việt, khí hậu nhiệt đới nắng ấm, lượng mưa dồi dào, diện tích che phủ rừng còn lớn, tài nguyên sinh vật rất phong phú. Tây Nguyên giàu tài nguyên đất đai, tương đối màu mỡ, đặc biệt là tầng bazan, có nhiều tiềm năng phát triển nông lâm kết hợp. Tuy nhiên, những lợi thế và tiềm năng đó của Tây Nguyên chưa được khai thác và phát huy hiệu quả, nguồn tài nguyên rừng quý giá đang ngày một suy giảm. Một trong những nguyên nhân chính là do tình trạng phá rừng của một bộ phận lớn người dân tộc thiểu số Tây Nguyên để làm nông nghiệp do lối sống du canh, du cư.

Ở Tây Nguyên có hơn 30% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, cộng với một lượng lớn dân nhập cư tự do từ các tỉnh phía Bắc. Hầu hết họ kiếm sống bằng cách chặt và đốt rừng để làm nương rẫy. Phương thức canh tác này không hiệu quả mà còn là nguyên nhân chính làm tàn phá nguồn tài nguyên rừng quý giá của Tây Nguyên. Mặc dù từ năm 1975 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng vấn đề định cư và đã đầu tư rất nhiều công trình để giải quyết vấn đề này nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Tình trạng du canh, du cư vẫn tiếp diễn, số lượng và chất lượng rừng tự nhiên ở Cao nguyên Trung tâm suy giảm hàng năm.

Xuất phát từ vấn đề này, với sự tài trợ của Quỹ Khoa học Quốc tế (ifs), chúng tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu luân canh cây trồng ở Tây Nguyên nhằm khái quát thực trạng và đặc điểm luân canh ở Tây Nguyên. Tây Nguyên, đề xuất một số chính sách và giải pháp thúc đẩy sử dụng hợp lý đất lâm nghiệp và quản lý bền vững tài nguyên rừng Tây Nguyên.

I. Thực trạng luân canh chung ở Tây Nguyên

Các dân tộc ở Tây Nguyên sống trên 4 cảnh quan rõ rệt: trung du, núi thấp, cao nguyên và đồi núi, thung lũng. Mỗi cảnh quan địa hình có điều kiện sống và canh tác khác nhau: thuận lợi hơn hoặc khó khăn hơn, dẫn đến các ngôi làng dày đặc hơn hoặc thưa thớt hơn với các quy mô khác nhau. Ở các dạng địa hình trũng, cao – những nơi có địa hình bằng phẳng, giao thông đi lại thuận lợi, canh tác thuận lợi như vùng trũng Khun Tun, Cao nguyên Pleiku, làng Mallow… có nhiều làng quy mô lớn. rất đông đúc. Đồng thời, ở các vùng núi, nhất là vùng núi vừa phải, sườn dốc, vùng sâu, vùng xa dân cư thường tương đối thưa thớt. Mật độ phân bố của làng xã và dân số không chỉ liên quan đến yếu tố địa hình, cảnh quan mà còn liên quan đến mức độ canh tác và ổn định sinh sống.

Canh tác luân canh là hình thức chủ yếu và có tầm quan trọng nhất trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, do canh tác đất ngập nước chưa phổ biến và chỉ xuất hiện ở một số vùng. Điều kiện sống của người Bahnar vượt trội và phù hợp với sản xuất lúa nước. Trên thực tế, việc trồng lúa của người dân Tây Nguyên còn rất đơn giản và quảng canh, không bón phân hay thâm canh như người Kinh. Ngoài ruộng, kinh tế vườn ngày càng trở thành yếu tố quan trọng, nhất là đối với các làng định cư. Nhưng nhìn chung, kinh tế vườn không chiếm ưu thế trong kinh tế hộ gia đình ở Tây Nguyên.

Hệ thống canh tác nương rẫy gắn liền với rừng và dựa vào hệ sinh thái rừng, không chỉ là nguyên nhân làm suy giảm rừng mà còn tác động mạnh mẽ của việc suy giảm tài nguyên rừng đến hệ thống canh tác nương rẫy. Cho đến những năm 1960, nhiều địa hình khác nhau của Tây Nguyên vẫn còn được bao phủ bởi rừng rậm, người dân Tây Nguyên vẫn duy trì chế độ luân canh truyền thống bỏ hóa dài hàng chục năm. Sau này, nhất là sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), do sự ra đời của các doanh nghiệp nhà nước, quy mô khai khoáng lớn, dân số tăng nên diện tích rừng có sự biến động lớn, tác động mạnh mẽ đến sự chuyển dịch. hệ thống canh tác của thổ dân. Người dân Tây Nguyên. Nhìn chung hình thành hai vùng có phương thức canh tác khác nhau:

(1) Đới thứ nhất bao gồm các vùng có nhiều rừng, chủ yếu ở cao nguyên, vùng sâu, vùng xa. Mật độ dân số của khu vực cơ bản thấp nên hệ thống luân chuyển truyền thống vẫn được duy trì. Tuy nhiên, phương thức canh tác cũng có những thay đổi nhất định do hoàn cảnh khác nhau. Rừng ít nhiều bị suy giảm, rào cản pháp lý không cho phép vùng nào được chọn canh tác, đặc biệt là rừng nguyên sinh, nơi người dân bản địa vẫn ưa thích đốt nương làm rẫy. Thời gian luân chuyển ngày càng dài ra, thời gian bỏ hoang ngày càng ngắn lại.

(2) Quận 2 là khu vực có địa hình bằng phẳng, giao thông thuận lợi, mật độ dân cư cao. Phát triển rừng thâm canh ở khu vực này đã dẫn đến một diện tích rừng nhỏ. Người dân làm ruộng trong vùng buộc phải lựa chọn giữa cây bụi và cỏ để canh tác. Vì vậy, quy trình canh tác cũng có nhiều thay đổi, thay vì đốt, đốt, chặt thì phải cuốc đất trước khi tỉa cành. Cường độ luân chuyển sử dụng đất tương đối nhanh, thời gian bỏ hóa chỉ vài năm, thảm thực vật phục hồi chỉ xuất hiện dưới dạng cỏ, cây bụi được tái sử dụng.

Áp lực gia tăng dân số và nhu cầu xã hội đã làm thay đổi căn bản diện mạo du canh ở Tây Nguyên. Bên cạnh nguyên nhân phá rừng làm rừng trồng, các nguyên nhân khác như khai thác, xâm hại rừng không hợp lý, mở rộng cây hàng hóa, đặc biệt là cà phê, đã làm cho tài nguyên rừng Tây Nguyên suy giảm cả về số lượng và chất lượng.

Có thể nói, du canh du cư vẫn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất rừng ở các tỉnh Tây Nguyên, đồng thời cũng là bài toán khó mà Đảng ta và cả nước đang quyết tâm giải quyết.

Hai. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

1. Nội dung

Điều tra, khảo sát về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và con người Tây Nguyên.

Điều tra đặc điểm luân canh của một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Đề xuất các chính sách và giải pháp sử dụng hợp lý đất lâm nghiệp ở Tây Nguyên.

2. Phương pháp nghiên cứu

Các bước nghiên cứu được thể hiện trong hình bên dưới:

– Phương pháp nghiên cứu: phỏng vấn trực tiếp, kết hợp với điều tra thực địa. Từ những thông tin có được, phân loại và lựa chọn đối tượng, địa điểm điều tra. Cụ thể, năm nhóm dân tộc tiêu biểu sau đã được chọn (xem Bảng 2):

Bảng 2. Sự chuyển dịch nhóm dân tộc và điểm khảo sát

Phương pháp được áp dụng là khảo sát nông thôn nhanh (pra) liên quan đến toàn bộ dân số.

Tại các xã khảo sát, chọn một số thôn điển hình để khảo sát hộ gia đình. Theo sự biến động của các yếu tố điều tra, số hộ được phỏng vấn có thể chiếm 20-40% tổng số hộ trong xã.

Ba. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội Tây Nguyên

* Điều kiện tự nhiên

+Vị trí địa lý: Tây Nguyên nằm ở tọa độ địa lý 11o13′ – 15o15′ vĩ độ Bắc; 107o02′ – 109o05′ kinh độ Đông.

Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía tây giáp Lào, Campuchia và tỉnh Bình Dương, phía đông giáp các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, phía nam giáp tỉnh Đồng Nai.

+ Địa hình: Địa hình Tây Nguyên bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn, các dạng địa hình phức tạp và độc đáo. Địa hình đồi núi chiếm khoảng 40% diện tích toàn diện tích, còn lại là cao nguyên rộng và bằng phẳng hoặc thoai thoải.

+Khí hậu thủy văn: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu Tây Nguyên có những đặc điểm chính sau:

(1) Nền nhiệt độ cao, tích nhiệt toàn phần, đủ ánh sáng;

(2) Lượng mưa trung bình năm lớn nhưng phân bố không đều theo thời gian và không gian:

Lượng mưa lớn nhất 2.500-3.000 mm/năm, nhỏ nhất 1.200-1.400 mm/năm; 90% lượng mưa năm tập trung vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 10 năm sau4 tháng;

(3) Các yếu tố khí hậu, thủy văn ở Cao nguyên Trung tâm có sự phân hóa mạnh theo mùa, đồng thời xuất hiện các yếu tố bất lợi, về mùa khô nhiệt độ tăng cao và xảy ra cảnh khô hạn, thiếu nước trầm trọng.

+ Thổ nhưỡng: Tây Nguyên có thổ nhưỡng được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau như đá mácma chua, đá mácma kiềm và trung tính, sét biến chất, cát, đá xốp… Các loại đất chủ yếu là:

(1) Đất đỏ vàng phát triển trên đá macma chua chiếm 36%;

(2) Nhóm đất nâu đỏ, nâu vàng phát triển trên đá bazan và đá trung tính chiếm 32%;

(3) Đất đỏ vàng phát triển trên đá biến chất chiếm 14%;

Xem Thêm : Các hình thức thanh toán trên hóa đơn và những quy định quan trọng

(4) Đá granit, đất xám bạc màu trên phù sa cổ;

(5) Ngoài ra còn có đất phù sa, đất đen phát triển trên tuf.

*Tình trạng kinh tế xã hội

+ Dân số, dân tộc: Dân số Tây Nguyên năm 1999 là 4,0585 triệu người. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm là 2,7%. Dân số tăng một phần do gia tăng tự nhiên và một phần do gia tăng cơ học do làn sóng di cư tự do từ các tỉnh miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung đến Tây Nguyên làm ăn, sinh sống. Mật độ dân cư trong vùng rất không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ, ven đường.

Khoảng 40% dân số Tây Nguyên là đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu sống bằng nương rẫy.

Đặc điểm chung của các dân tộc ở Đồng bằng Trung Bộ là mỗi dân tộc đều sinh sống trên một địa bàn nhất định và đan xen lẫn nhau. Khoảng 70% dân tộc bản địa chủ yếu sinh sống trên cao nguyên, có nhiều rừng rậm, đó là xe đăng, giẻ triêng, m’nông, roman và các dân tộc khác, chỉ có các dân tộc thiểu số như ja rai, Êđê, bahnar sinh sống ở những vùng thuận lợi hơn, các làng tương đối tập trung. Nhìn chung, cơ cấu dân tộc của Tây Nguyên phức tạp, quá trình phát triển không đồng nhất; trình độ dân trí, kinh tế – xã hội không đồng đều; phong tục tập quán, ngôn ngữ, tín ngưỡng, tâm lý xã hội… rất đa dạng.

+ Di cư: Di cư là quốc sách để phát triển kinh tế, nhưng cũng là vấn đề quản lý lớn của Tây Nguyên, đặc biệt là quản lý tài nguyên rừng. Di cư tự do ngày càng nhiều ở các tỉnh Tây Nguyên, nhất là ở những nơi có điều kiện đất đai, nguồn nước thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp như cà phê, ao hồ… như Đà Lăk, Lâm Đồng. .Đó cũng là một trong những tác nhân gây ra tốc độ tàn phá tài nguyên rừng và môi trường sinh thái ở Cao nguyên Trung tâm với tốc độ chóng mặt trong những năm gần đây.

+ Tình hình kinh tế – xã hội: Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, Tây Nguyên hiện có 100 xã, 700 thôn, bản thuộc 42 huyện, khoảng 40.000 hộ, 250.000 nhân khẩu sống ở vùng sâu, vùng xa. đặc biệt khó khăn chỉ có 5 – 7% hộ khá, có thu nhập bình quân đầu người 60 – 70 nghìn đồng/tháng; 15 – 20% hộ có thu nhập bình quân đầu người 30 – 40 nghìn đồng/tháng; hộ có thu nhập 15-25 nghìn đồng/tháng 55%; thu nhập dưới 15 nghìn đồng/tháng 20-25%. tỷ lệ dân số mù chữ 40-50%.

+ Tài nguyên thực vật rừng: Điều kiện địa lý, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng phong phú của Tây Nguyên đã tạo nên một hệ sinh thái rừng độc đáo với nhiều loại động thực vật phong phú. Cao nguyên trung tâm là nơi gặp gỡ của nhiều luồng thực vật: từ Malaixia đến Inđônêxia với các loài hạt có dầu đặc trưng; từ Ấn Độ – chiêm Myanma; từ Himalaya – Vân Nam – thông với các loài thông đặc trưng; và hệ thực vật bản địa của miền Bắc Việt Nam gồm tái, giga và các loài khác. loài, tạo nên quần thể thực vật phong phú nhất vùng Tây Nguyên của đất nước. Theo thống kê, ở Tây Nguyên có hơn 4.500 loài thực vật thuộc 224 họ, 1.200 chi; có hơn 700 loài thực vật thân gỗ, thuộc 90 họ thực vật hạt trần và thực vật hạt kín.

2. Đặc điểm chung về luân canh cây trồng ở Tây Nguyên

Tất cả thổ dân sống ở Tây Nguyên kiếm sống bằng nghề nông. Hầu hết các dân tộc (trong đó có một số lượng lớn người Kinh) di cư đến Tây Nguyên cũng tham gia du canh du cư. Luân canh cây trồng của mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng, phản ánh nhận thức, kinh nghiệm, truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo của họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy những nét chung của hệ thống luân chuyển ở Tây Nguyên:

+ Làm đất là một phương pháp sử dụng đất trong đó một khu rừng thường bị đốt để trồng cây lương thực trong vài mùa rồi bỏ hoang để chuyển sang trồng rừng khác;

+ Mỗi năm, người dân chỉ canh tác một mùa khô tương ứng với mùa mưa ở mỗi vùng. Chu kỳ canh tác được thực hiện theo nhiều giai đoạn khác nhau và tuân theo lịch âm rất chặt chẽ: Các giai đoạn chính của chu kỳ chuyển đổi là: (i) Lựa chọn địa điểm (thường xuyên, đồng thời). Chọn rừng già, đất tốt, ít cây bụi, dây leo; (ii) phát quang, phát quang; (iii) đốt; (iv) tỉa cành; (v) chăm sóc, làm cỏ; (vi) khai thác; (vii) thay đổi không hiệu quả.

+ Tuy mỗi dân tộc có những đặc điểm riêng nhưng thổ dân đồng bằng Trung Bộ trước khi sản xuất đạt đến một giai đoạn nhất định sẽ tổ chức nghi lễ cúng thần linh, điều này đã trở thành phong tục văn hóa của họ.

+ Luân canh là hệ thống canh tác hoàn toàn dựa vào quá trình tự nhiên, không bổ sung chất dinh dưỡng (phân bón…) nên năng suất phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên và rất không ổn định.

Về cơ bản, hệ thống canh tác luân canh truyền thống của người dân Tây Nguyên có những đặc điểm chính sau: (i) Mọi nhu cầu về đời sống vật chất đều được đáp ứng một cách tự cung tự cấp. tài nguyên trong hệ sinh thái rừng. Đồng ruộng là nguồn cung cấp ngũ cốc và lương thực chính, đồng thời là nguyên liệu để dệt vải; hệ sinh thái rừng cung cấp nguyên liệu để xây dựng nhà cửa, củi đun, lương thực và ngũ cốc bổ sung trong thời kỳ thu hoạch. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân phần lớn phụ thuộc vào hệ sinh thái rừng. Vì phải tự cung tự cấp nên đặc điểm sản xuất lớn nhất trong hệ thống nông nghiệp của họ là đa dạng cây trồng, nhiều loại cây trồng. (ii) Về văn hóa: đặc điểm nổi bật nhất là tính cộng đồng rất cao, thể hiện rõ trong cách tổ chức lao động như: công vụ, trao đổi công việc, tương trợ. .Đặc điểm thứ hai là tính di động của nông nghiệp và đặc điểm thứ ba là nghi thức nông nghiệp liên quan chặt chẽ đến giai đoạn sản xuất trong chu kỳ canh tác. Do ảnh hưởng của môi trường sống và bản sắc dân tộc, các hoạt động tế lễ trong nông nghiệp đã hình thành nên những phong tục tập quán rất đặc sắc. Trong tất cả các hoạt động phong tục này, vai trò của trưởng làng, trưởng bản và các chức sắc như thầy cúng, thầy cúng là rất quan trọng. Phân tích hệ thống canh tác cổ truyền của thổ dân Tây Nguyên, ta thấy:

+ Về điểm mạnh: Các hệ thống nông nghiệp đã biết sử dụng linh hoạt các quá trình tự nhiên trong các chiến lược sinh hoạt trong nước. Là hình thức canh tác không đòi hỏi đầu vào cao, kỹ thuật canh tác đơn giản, phù hợp với khả năng của nông dân miền núi. Hệ thống canh tác này không sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu nên rất sạch cho môi trường.

+ Nhược điểm: Hệ thống canh tác chỉ phù hợp với những nơi có diện tích rừng lớn, mật độ dân số thấp (dưới 50 người/km2), áp lực xã hội lên rừng thấp, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, năng suất bấp bênh. Mặt khác, do không có các yếu tố sản xuất hàng hóa nên luân canh cây trồng không thể là biện pháp nâng cao đời sống vật chất của người dân miền núi.

Ngày nay, hệ thống canh tác ở Tây Nguyên chịu ảnh hưởng sâu sắc của những thay đổi về môi trường văn hóa – xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường chính sách và thể chế. Những thay đổi cơ bản là:

– Về môi trường văn hóa – xã hội: Những biến đổi xã hội kéo theo những thay đổi về tổ chức cộng đồng, gia tăng dân số và đặc biệt là sự di cư của các dân tộc khác đến địa bàn. quá nhiều áp lực.

-Môi trường vật chất: Việc mở rộng quy mô doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp chịu nhiều áp lực kinh tế xã hội, môi trường rừng bị hạn chế về số lượng và chất lượng.

p>

-Về môi trường chính sách, thể chế: Hàng loạt chính sách quốc gia liên quan đến phát triển kinh tế – xã hội, quản lý tài nguyên ở vùng DTTS miền núi đã tạo ra những thuận lợi rất cơ bản. hệ thống nông nghiệp truyền thống của họ. Tất cả những yếu tố này đã làm thay đổi căn bản hệ thống du canh ở Tây Nguyên: Tri thức bản địa bị mai một, tri thức hiện đại không đủ điều kiện phát huy, hệ thống canh tác thiếu ổn định, thiếu bền vững, trở thành một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến mất rừng.

Do những thay đổi trên, hệ thống luân canh cây trồng của thổ dân ở đồng bằng miền Trung đã có những thay đổi đáng kể, đặc biệt là thời gian canh tác dài hơn và thời gian bỏ hoang ngắn hơn, thậm chí có nơi không còn thời gian bỏ hoang

Vấn đề cơ bản mà các cộng đồng thổ dân ở Tây Nguyên phải đối mặt hàng ngày là đói và nghèo. Các chiến lược giải quyết vấn đề của họ chủ yếu dựa trên luân canh cây trồng và họ phải đối mặt với nhiều trở ngại liên quan đến đầu vào, đầu ra và các yếu tố môi trường. Những trở ngại chính có thể được tóm tắt như sau:

+ Năng suất cây trồng, vật nuôi thấp là do: (i) nương rẫy, xói mòn mạnh, độ phì nhiêu của đất suy giảm nhanh, làm cỏ không kịp thời…; (iii) sử dụng giống địa phương năng suất thấp.

+ Tỷ trọng cây hàng hóa thấp là do: (i) thiếu vốn sản xuất; (ii) thiếu thông tin và khả năng tiếp cận thị trường; (iii) thiếu công nghệ và (iv) thiếu lao động.

+ Nguồn thu nhập từ lâm nghiệp không có hoặc không đáng kể do: (i) chưa có cơ chế giao đất, giao rừng hợp lý để tạo cơ hội kinh tế cho nông dân; (ii) chưa có động cơ nâng cao nhận thức về bảo tồn và sử dụng bền vững rừng .

Chính những rào cản này đã làm cho sinh kế của người dân thiếu bền vững, du canh du cư vẫn tiếp diễn, tác động tiêu cực đến tài nguyên rừng tự nhiên.

3.Đặc điểm một số dân tộc thiểu số ở đồng bằng miền Trung theo luân canh

* Vòng quay của người ja rai

Gia Lai thuộc ngữ hệ Nam Đảo, là nhóm dân tộc địa phương đông dân nhất sinh sống trên địa bàn rộng lớn từ Kon Tum qua Gia Lai và Đắk Lắk, phân bố ở tỉnh Khánh Hòa và Tây Bắc Việt Nam, Phú Yên, nhưng tập trung chủ yếu ở giữa Hai tỉnh Tây Nguyên phía Bắc (chiếm 3/4 dân số). Theo Niên giám thống kê tỉnh Gia Lai năm 1997, Gia Lai có 305.569 người, chiếm 34,26% dân số toàn tỉnh (chỉ đứng sau dân tộc Kinh).

Nền kinh tế và phương thức canh tác: Nền kinh tế Gia Lai chủ yếu dựa vào sản xuất nương rẫy và hái lượm lâm sản (chỉ một số ít người dân có thể trồng lúa nước). Các biện pháp luân canh cây trồng chủ yếu là phát quang, đốt, chọc và cắt. Các loại cây trồng chính là lúa, ngô, đậu xanh và mì (sắn). Công cụ sản xuất chính là cuốc và dao. Người ja rai thu hoạch lúa bằng cách tuốt lúa hoặc dùng nứa cắt ngọn, cho vào sọt và đựng trong vựa nơi họ đi làm đồng, chỉ mang về nhà đủ ăn. Đầu tiên, người ta đập lúa tại thánh địa (nơi cúng tế lúa), mang về làm lễ cúng cơm mới rồi bắt đầu thu hoạch. Đây là một phong tục, giải thích vì sao các dân tộc thiểu số ở đồng bằng miền Trung không có tục bón phân cho lúa rẫy. Người Gia Lai cho rằng rừng núi, đất đai, sông suối đều thuộc sở hữu chung của xã hội và trong phạm vi làng, người sở hữu đất đai là chủ sở hữu của làng. Các gia đình trong làng mở bao nhiêu cũng được nhưng không được chiếm đất người khác khai hoang (kể cả đất bỏ hoang). Người ngoài không có ruộng đất có thể đến tìm việc nhưng phải được sự đồng ý của chủ ruộng và sự đồng ý của dân làng. Ngoài các hoạt động kinh tế chính phụ thuộc vào tài nguyên rừng: luân canh, hái lượm và săn bắt, người Gia Lai còn có hai nghề thủ công chính lúc rảnh rỗi là dệt vải (nữ) và đan lát (nữ, nam), nhưng đây không phải là nghề chính. công nghiệp sản xuất, chủ yếu để tự túc về quần áo và đồ gia dụng.

Đặc điểm du canh: Sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí chủ đạo và là nguồn thu nhập chính của người Gia Lai. Theo truyền thống, hoạt động nông nghiệp chính của người Jarai là luân canh cây trồng. Chu kỳ luân chuyển của một người bao gồm các giai đoạn sau:

· Chơi, chặt cây

Hủy và dọn ruộng

·Cắt tỉa, gieo hạt

Nhổ cỏ, chăm sóc, bảo vệ

·Thu hoạch

Thời gian cao điểm bận rộn nhất là gieo cấy (tháng 1, 2), làm cỏ, chăm sóc (tháng 5, 6, 7) và thu hoạch (tháng 9) và dương lịch.

Xem Thêm : Giải bài 6 Cây gạo | Giải tiếng việt 3 tập 2 kết nối tri thức – Tech12h

Theo khảo sát của Làng Mọc, lao động cần thiết cho công đoạn luân canh như sau (tính trên 1 ha): chặt cây: 30-40 người, cả gia đình cùng tham gia; đốt và dọn dẹp : 2-5 công, chủ yếu do nam giới làm; Gieo mạ, tỉa cành: 20-28 lao động, đổi công với anh em trong thôn (mỗi hộ một ngày); Làm cỏ, chăm sóc: 35-45 lao động, người trong gia đình, có khi cùng làm; Đang thu hoạch: 25-30 ha, gia đình. Vì vậy, khi đến việc cày, gieo, làm cỏ và thu hoạch, công việc bận rộn và thiếu lao động. Tuy nhiên, hầu hết các thôn trong xã không tuyển thêm lao động, cũng không làm thuê, chỉ có lao động thời vụ. Điều này phản ánh tổ chức lao động gia đình còn chưa khoa học, cường độ lao động cao, hiệu quả và năng suất lao động thấp.

Ba tháng nhàn rỗi là tháng 11, 12 và đầu tháng 1. Hoạt động chính của người dân là lễ hội, thăm hỏi họ hàng, bạn bè và hái lượm lâm sản hoặc săn bắn trong rừng. Mấy tháng nay, trừ một số gia đình có nghề thủ công như dệt thổ cẩm, đan lát, những tháng còn lại hầu như không có việc làm.

Kiểu rừng ja rai trong canh tác ia m’nông là rừng thứ sinh sau nương rẫy, thời gian canh tác từ 1 đến 2 vụ, thời gian bỏ hóa từ 5 đến 6 năm.

* luân canh cây trồng của người dân xe dang

Dân tộc Tạ Đăng thuộc ngữ hệ Môn-Khmer, dân số khoảng 9.600 người. Địa bàn dân cư chủ yếu là tỉnh Kon Tum và một số vùng núi ở Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nhóm Xe dang được chia thành các nhóm địa phương sau: sep teng, ca dong, to drang, ha lang, và dready.

+ Đặc điểm kinh tế và luân canh cây trồng:

Đại đa số nhân dân ở xã rô kô là đồng bào dân tộc Xe đăng ở Hạ Long, cùng chung sống, có điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa, tập quán sản xuất và sinh hoạt tương đồng. Như vậy rừng đến làng cũng tương tự như vậy. Cuộc sống của người Harang rất gắn bó với rừng. Trước đây, cuộc sống của họ là tự cung tự cấp, sử dụng nhiều lâm sản. Theo kết quả điều tra về sử dụng lâm sản, người dân thu hái các sản phẩm rất phong phú, bao gồm thân, lá, rễ, vỏ cây, thú rừng và các loại lâm sản khác.

Xét về mục đích sử dụng, lâm sản thu được để bán có tổng điểm cao nhất (57 điểm), tiếp đến là lương thực (55 điểm), làm nhà ở (41 điểm), chữa bệnh (39 điểm), cuối cùng là lao động sản xuất và công cụ sinh hoạt (18 điểm).

Xét về loài, dây rừng được đánh giá cao nhất (27 điểm) vì có nhiều công dụng nhất. Các loại điểm tiếp theo là Gỗ, Tre, Mật ong, Động vật hoang dã, Cá suối, Măng tre và Lá rừng. Các hạng mục có điểm thấp hơn là tranh vẽ, nấm, rau, quả mọng, cục, vỏ cây và rễ. Nói chung, lâm sản càng hữu ích và quan trọng đối với cuộc sống thì càng có thể khai thác được nhiều hơn.

Thời gian phát triển khác nhau đối với các loại sản phẩm khác nhau. Gỗ, tranh, tre, nứa dùng để dựng nhà, dựng chòi, làm công cụ lao động chỉ được sử dụng khi cần thiết. Một số loài chỉ có theo mùa như mật ong, nấm, măng, trái cây. Sản phẩm có quanh năm, vừa để ăn vừa để bán, sẵn sàng khi người ta rảnh rỗi, túng thiếu, hay ốm đau cần thuốc men.

Người ha lang xã rô kôi kon tum thực hành luân canh cây trồng như sau: sạ, đốt, chọc lỗ, bỏ hạt để làm ruộng chay. Khu vực sinh sản của chúng thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Chumore. Đối với người Harang, không có sự phân chia đất canh tác giữa các làng. Ai khai hoang trước thì được quyền sử dụng, ai bỏ ruộng thì được canh tác. Hiện nay, hầu hết các cánh đồng trong xã đều gần khu dân cư, thuận tiện cho việc đi lại. Đối với vùng đất ngập nước, do không được phép xâm phạm vào vùng lõi của khu bảo tồn nên nhiều nông dân phải đi làm ăn xa, có thể đến hơn 10 cây số. Trong trường hợp này, người dân phải gánh lúa ra đồng nấu ăn và cứ 5 đến 10 ngày mới về nhà để giảm thiểu thời gian đi lại và tăng thời gian lao động. Đối với những gia đình khó khăn về kinh tế, con cái thường phải phụ giúp cha mẹ công việc đồng áng, ruộng ở xa, con cái không được đến trường. Đây là một mất mát lớn đối với họ.

Bản đồ mô phỏng chu trình canh tác của người dân tộc Xiedang như sau:

8-9 tuổi

1-2 tuổi 3-4 tuổi

* Luân phiên của người Miêu

Dân tộc M’nông thuộc ngữ hệ Khmer Môn, có khoảng 6.700 nhân khẩu, gồm các nhóm địa phương sau: gar, prang, preh, biat, bu-dang, chil, sito, nong và khuyen. …; Phân bố chủ yếu ở phía Tây Nam tỉnh Đắk Lắk, phân bố một phần ở phía Bắc Bình Dương và phía Tây Bắc Lâm Đồng.

Đặc điểm của luân canh + cây trồng:

Người dân trồng cây giống tại điểm khảo sát chủ yếu có hai hình thức canh tác là luân canh và canh tác đất ngập nước. Lúa nước được trồng gần khu dân cư, dễ lấy nước, tuy luân canh thường được thực hiện trên sườn đồi nhưng đất dốc nên độ phì giảm nhanh. Trên đất dốc thấp cũng hình thành ruộng cố định nhưng năng suất còn thấp. Các vùng đất ngập nước ổn định thường ở gần các khu dân cư và đã có kế hoạch sử dụng. Tuy nhiên, hầu hết các gia đình vẫn có một khu vực săn bắn cố định trong rừng, cách xa nơi họ sinh sống. Một điều cần lưu ý về phong tục sở hữu (hoặc chiếm giữ) ruộng đất của nông dân Miêu là: việc phát nương làm rẫy trước đây là của làng, nhưng đã bị đóng cửa do những biến đổi xã hội. Sau năm 1954, hầu hết làng đã thay đổi và di chuyển. Hiện nay, người dân sau khi trở về làng cũ hoặc định cư ở nơi khác vẫn có xu hướng tìm về mảnh đất (làng cũ) của mình để làm nương rẫy. Vì vậy, việc luân chuyển của nhiều hộ nông dân thường ở xa nơi cư trú, thậm chí sang các địa bàn hành chính khác của xã. Trước năm 1954, các cánh đồng thường bị bỏ hoang trong hơn 40 năm, nghĩa là rừng đã phục hồi hoàn toàn. Ngày nay, thời gian bỏ hoang chỉ còn 2-3 năm, đó là khi cỏ và bụi cây mới hình thành và sau đó phát triển lại. Hậu quả là năng suất ruộng thấp (xấp xỉ 1,2 tấn/ha). Sơ đồ luân canh cây trồng của nông dân Miêu như sau:

2-3 tuổi

3-4 tuổi

* Đặc điểm dân tộc và luân canh cây trồng của người Giẻ Triêng

Bộ tộc Jiatie thuộc ngữ hệ Khmer Môn, dân số khoảng 2.700 người, phân bố chủ yếu ở huyện Đa Lai tỉnh Kon Tum và miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam, có các nhóm địa phương như: ve, tơ riêng, bnoong, giẻ và trong. Địa điểm khảo sát được thực hiện tại xã Đắc Môn, huyện Đắc Trai. Nằm trên địa hình trung du núi cao và địa hình của thung lũng sông Poko và sông Dakmi, xen kẽ với địa hình bị chia cắt bởi các dòng suối dak long, dak wek và dak se. Độ cao trung bình 1400-2000 mét, thấp dần từ Bắc vào Nam. Cao nhất là đỉnh Ngọc Linh (2.598m). Tổng diện tích tự nhiên của xã là 6.810 ha, trong đó diện tích trồng nông nghiệp 724 ha, đất Thụy Sỹ 412 ha (chiếm gần 57% diện tích trồng nông nghiệp), ruộng 132 ha, cây lâu năm 180 ha. cây trồng. Dân số toàn xã là 590 hộ với 3341 nhân khẩu, trong xã có hơn 95% dân số là người giẻ triêng.

Rừng của người Giềng ở xã Đác Môn thường mọc ở rừng gỗ thứ sinh cằn cỗi, sườn núi thấp trên đồi núi trập trùng. Cây trồng chủ yếu trên nương là lúa nương, ngô, sắn. So với các nơi khác, thời gian làm ruộng tương đối dài, hơn 3 vụ lúa, rồi 1 vụ sắn, rồi bỏ hoang. Thời gian bỏ hoang khoảng 2-3 năm. Tình hình luân canh cây trồng của họ giẻ cùi như sau:

2-3 tuổi

*Luân canh cây trồng của người Chulu

Dân tộc Chu Nho thuộc ngữ hệ Nam Đảo (malayo-polinesien) theo mẫu hệ, có dân số khoảng 10.402 người, cư trú tại tỉnh Lâm Đồng.

Từ giữa tháng Giêng đến giữa tháng Hai, người dân bắt đầu khai hoang. Theo phương pháp truyền thống, thổ dân ở thị trấn Kaduo thường thích chọn những khu rừng già (rừng rlau) và sườn đồi có nhiều cây cổ thụ để đốt trên những sườn đồi có độ dốc từ 30-400 độ. Sở dĩ chọn rừng già có độ dốc là đất tốt hơn rừng non, làm cỏ đỡ tốn công. Trong kỹ thuật làm nương, đầu tiên chị em dùng xà nhà tách cây non ra khỏi dây, thường chỉ chặt một vài đoạn chứ không chặt cả cây. Sau đó, những người đàn ông dùng rìu lần lượt chặt những cây to từ dưới lên trên dốc để dẫn những cây to đổ từ trên xuống dưới cùng với những cây non, dây leo được trồng. cắt tỉa. Khoảng 1 tháng sau khi cắt và phát, khoảng cuối tháng 3 bắt đầu đốt để đón những cơn mưa đầu mùa vào khoảng tháng 4, sau đó bắt đầu xới và tỉa hạt. Từ những năm 1950, với mật độ dân số thấp và thời gian bỏ hoang hơn 10 năm, hệ thống canh tác truyền thống này cũng là một phương pháp bền vững, nhưng ngày nay, dân số tăng nhanh, diện tích rừng tự nhiên ngày càng giảm và hệ thống hai vụ khép kín. bị hỏng .

(bơi, du c)

(3)

4. Chính sách và giải pháp sử dụng hợp lý đất rừng ở Cao nguyên Trung tâm

* Chính sách được phát triển qua các năm

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cam kết, chính sách ưu tiên phát triển nông thôn, miền núi, xóa đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng nảy sinh nhiều trở ngại liên quan đến đời sống, văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Có thể nhấn mạnh một số điểm như sau:

+Luật đất đai: Không thừa nhận chính thức quyền sở hữu đất đai theo tập quán. Chính sách giao đất, giao rừng của Chính phủ theo Nghị định 01, 02 đã được triển khai ở nhiều nơi và bước đầu đạt được những kết quả quan trọng, đã tạo động lực bảo vệ và phát triển vốn rừng của nước ta. trong những năm gần đây để thu hút mọi người tham gia vào công việc quản lý. Tuy nhiên, quyền sử dụng đất (qu) chính thức vẫn chưa được xác lập ở nhiều nơi do cách tiếp cận và nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều trở ngại.

+ Luật Bảo tồn và Phát triển rừng là rào cản pháp lý hạn chế tình trạng du canh du cư tự do và hạn chế sự lựa chọn vùng canh tác của cộng đồng.

+ Chính sách định canh, định cư, vùng kinh tế mới, đầu tư mạnh cho xây dựng cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm… ổn định nhà ở, phát triển đất hoang hóa, xây dựng các công trình thủy lợi, quy hoạch luân canh vùng canh tác… ổn định diện tích canh tác, hạn chế luân canh cây trồng.

+Các dự án hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội, nông nghiệp, lâm nghiệp, xóa đói, giảm nghèo được kết hợp với các dự án phát triển lâm nghiệp trọng điểm như 327, 661, môi trường chính sách/thể chế cũng có nhiều thay đổi lớn.

Liên quan đến câu hỏi nghiên cứu, trước tiên cần đề cập đến những vướng mắc trong quá trình quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cho nông dân. Luật Đất đai năm 1993 và hàng loạt các văn bản dưới luật (như Nghị định-Luật số 01, 02, 64/cp…) đã xác định rõ khuôn khổ pháp lý cho vấn đề này. Tuy nhiên, trong thực tiễn cụ thể của vùng nghiên cứu, việc giao đất và xác định quyền sở hữu vẫn chưa thực hiện được. Lý do tại sao điều này xảy ra? Các rào cản sau đây có thể do một số nguyên nhân:

(1) Bảng phân loại đất đang sử dụng không phản ánh được thực trạng địa phương, đặc biệt không mang lại hữu ích cho người sử dụng đất. Không có tiêu chí rõ ràng để phân biệt giữa đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp, chúng chỉ phản ánh hiện trạng sử dụng. Ví dụ, làm thế nào để phân biệt giữa quay và bỏ hoang? Chúng là đất rừng hay đất nông nghiệp? Trong nhiều trường hợp, đất bị bỏ hoang trong chu kỳ canh tác luân phiên được liệt kê là v&agrave

Tin tức mới nhất

  • Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp
  • Ảnh hưởng của mật độ và bón phân đến năng suất rừng Keo lai 9,5 tuổi tại Quảng Trị
  • Nghiên cứu đặc điểm thổ nhưỡng vùng phân bố của Măng đen Sapa (phyllostachys nigra munro) tại Laojie
  • Phân tích chỉ số đa dạng sinh học của thực vật thân gỗ tại Khu bảo tồn thiên nhiên Shancha. Đà Nẵng
  • Nghiên cứu nhanh về đa dạng di truyền của cá khộp
  • Tin tức khác

    • Điều tra, đánh giá hiện trạng luân canh cây trồng ở các tỉnh Tây Nguyên (1998-1999)
    • Khảo sát cây phân tán ở Ấn Độ
    • Chính sách kinh tế về lâm nghiệp nhiệt đới ở các quốc gia Trung Phi
    • Chủ yếu phục vụ nghiên cứu suất đầu tư trồng rừng một số loài cây bản địa trong quy hoạch 327
    • Xây dựng dây chuyền và mô hình kỹ thuật thiết bị sản xuất ván dăm bạch đàn phế thải cỡ nhỏ

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button