Hỏi Đáp

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng | Văn mẫu 12

Phân tích bài tây tiến

Phân tích thơ Tây Phương sau đây sẽ giúp các em cảm nhận đúng những tư tưởng, tình cảm mà tác giả Quảng Đông muốn gửi gắm qua đoạn thơ. Chúng ta hãy phân tích từng khổ thơ, từng chi tiết quan trọng của bài thơ để hiểu được hình ảnh lãng mạn, bi tráng của miền Tây gắn liền với vẻ đẹp hào hùng của chân dung người lính.

Đề:Phân tích thơ Tây Phương của nhà thơ Quảng Đông.

Phân tích bài Nhập môn thơ ca phương Tây

1. Phân tích chủ đề

– Yêu cầu đề bài: Phân Tích Thơ Tây Phương.

– Tầm văn, dẫn chứng: Tiêu biểu, bài thơ Hướng Tây. để biết chi tiết.

– Phương pháp lập luận chủ yếu: phân tích.

2. Hệ thống luận điểm

Bài 1: Hình ảnh người lính trên những tháng ba thiên nhiên Tây Bắc

Bài 2: Những kỷ niệm đẹp về tình quân dân gắn bó, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

Luận đề 3: Chân dung người lính Tây

Luận đề 4: Lời thề trung thành với quân đội miền Tây và Tây Bắc.

3. Lập dàn ý chi tiết

Phân tích mở bài thơ phương Tây

Lời giới thiệu của tác giả quang dũng:

<3

Chân dung nhà thơ quang dũng – tác giả “Tây Phương Cực Lạc”

Giới thiệu thơ ca phương Tây:

– Tay Tiến là một bài thơ hay, mang đậm chất hào hùng, bi tráng và lãng mạn, tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng.

Phân tích thơ ca phương Tây

*Khái quát về thơ ca phương Tây

– tay tien: Là tên gọi của một binh đoàn được thành lập năm 1947. Nhiệm vụ của binh đoàn này là cùng quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực giặc Pháp.

– Từ lính Tây: Chủ yếu là người Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên.

– Lai lịch sáng tác: Năm 1947, Quảng Đông gia nhập Tây quân, giữ chức vụ đại đội trưởng. Cuối năm 1948, Quảng Đông chuyển đến đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, Bác làm bài thơ trên cây bách (chanh).

– Chủ đề bài thơ: Ca ngợi vẻ đẹp của những người lính miền Tây và vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp, thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ đối với những đoàn quân miền Tây, cảnh vật và con người vùng Tây Bắc đã từng gắn bó.

* Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên đường hành quân gian khổ

<3

-Bản đồ tự nhiên Tây Bắc hùng vỹ:

+Địa danh Sài Gòn, Mường Lát hàm ý xa xôi, hẻo lánh;

+ Từ tượng hình: “cong”, “sâu”, “ngọt ngào”, lối ám chỉ “nghiêng”, “lên dốc… lên dốc” Nghệ thuật gợi hình ảnh địa hình hiểm trở, quanh co, hiểm trở.

+Hình ảnh “súng ngửi trời” chỉ những ngọn núi mà người lính muốn chinh phục nhưng cũng có sự hóm hỉnh của người lính.

<3

+ Hình ảnh nhân hóa: “hổ vui”, “thác gầm” hàm ý sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều”, “tối”, các chiến binh thường xuyên đối mặt với hiểm nguy nơi rừng thiêng nước độc.

+ Sử dụng hầu hết các phong vũ biểu để nhấn mạnh độ gồ ghề của địa hình.

– Khung cảnh thiên nhiên có lúc êm dịu, mang hơi thở cuộc sống: “Ai linh tinh…”, “Cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em về…”, quán tạo không khí thư thái, tĩnh lặng .

– Hình ảnh hào hùng của những người lính hành quân “không còn nước bắn tung tóe”, “ngã mũ quên đời”: có thể hiểu qua hai câu thơ giản dị, diễn tả giây phút nghỉ ngơi của người lính sau trận đánh. Long March cũng có thể được hiểu là sự yên nghỉ vĩnh hằng.

– Nhận xét: Tây Bắc thiên nhiên hùng vĩ và đầy hiểm nguy, là thử thách đối với quân viễn chinh phương Tây.

*Những kỷ niệm đẹp về tình quân dân gắn bó, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– Tình quân, tình đồng bào mở hội đêm tiệc:

+ Đêm hội tưng bừng sắc màu: “Thắp sáng”, “Lễ hội pháo hoa”, “Chuông gió nhân gian”; duyên dáng người: “Áo giản dị”, “Nàng thẹn thùng”.

<3

– Riverview, Tây Bắc:

+ Đẹp kỳ ảo, hoang dã, thần thánh: “Sương chiều”, “Đập tan linh hồn”

+ Người lao động chất phác, chân chất: phong cảnh “độc đáo”, hữu tình, rực rỡ: “hoa nước lay động”

– Nhận xét: Quảng Đông đã khắc họa một hình ảnh nên thơ về cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống ấm no, con người hữu tình vùng Tây Bắc Trung Quốc bằng những nét vẽ lãng mạn.

*Chân dung người lính Tây tiến

– Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “bộ đội không để tóc dài”, “xanh”, sống và chiến đấu trong điều kiện gian khổ, khó khăn, gian khổ nhưng họ vẫn hiên ngang, “dữ dội” và oai phong .

-Họ là những người có tâm hồn và quan tâm, “Ye Meng”/”Hanoi Meng Ye Xiangmei”, và họ lấy hình ảnh người thân ở quê nhà làm động lực đấu tranh.

– Vẻ đẹp bi tráng của họ thể hiện ở sự hy sinh anh dũng:

<3

+ Cái chết đã được lí tưởng hoá trong hình ảnh những người anh hùng xưa: “áo bào”, “đơn hành độc mã”; thiên nhiên cũng đau khổ chứ không phải họ phải đau khổ.

– Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn, người lính Tây phương vẫn có nét lãng mạn, tự tại. Họ rất anh dũng và sẵn sàng chết cho đất nước bất cứ lúc nào.

Những người lính đi về phía tây

*Lời thề, nguyện bám quân Tây, Tây Bắc

– Đoạn thơ này gợi ý chí và quyết tâm ra đi tạm thời của Tập Cận Bình: “Người ra đi không hẹn ước”, đồng thời cũng là lời chia buồn với những người đồng đội đã hy sinh trong “Thâm cảnh sinh tử”.

-Tình cảm, nỗi nhớ, tình thương của tác giả luôn gửi lại cho đoàn quân Tây Bắc: còn miền núi Tây Bắc “Ai về Tây…/Hồn một đi không trở lại”/p>

Phân tích cuối thơ phương Tây

– Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

+ Nội dung: Với hình ảnh lãng mạn, bi tráng đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính miền Tây chiến đấu dũng cảm giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và tươi đẹp.

+Nghệ thuật: bút pháp lãng mạn và cảm hứng kịch tính, hình ảnh độc đáo, văn bản và giọng điệu sáng tạo

  • Hình ảnh thơ sáng tạo giàu sắc thái thẩm mỹ
  • Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động, gợi…), với những cách kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi, Mai Châu Kì bạn…), địa danh cụ thể, chân thực. ..
  • Giọng điệu: Có khi nghiêm túc tỉnh táo, có khi hồn nhiên vui vẻ, có khi u buồn, có khi trang trọng, có khi trầm lắng…
  • – Nêu cảm nghĩ, cảm nhận về bài thơ.

    » Đọc toàn văn: Phân tích Đại cương về thơ Quảng Đông

    4. Phân tích sơ đồ tư duy bài Tây

    Xem thêm: Sơ đồ tư duy phương Tây

    Một số bài văn hay phân tích thơ ca phương Tây

    Phân tích vẻ đẹp của thiên nhiên, chất anh hùng và cái bi tráng của miền Tây

    quang dũng là nhà thơ đa năng trên nhiều lĩnh vực thơ, họa, viết văn. Tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn của một con người hào hoa, lãng mạn và trữ tình. “Tây Du Ký” là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện phong cách thơ với những hình ảnh phóng đại, lãng mạn về người lính. Xiangxi được tạo ra vào năm 1948 trong cuộc đấu tranh khốc liệt của nhân dân Trung Quốc và nó được in dưới dạng tập hợp những bông hoa dọc chiến hào. Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên miền tây và ca ngợi sự dũng cảm, uy nghiêm của người lính.

    Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp thiên nhiên của trời Tây, một tiếng gọi từ hiện tại về quá khứ:

    <3

    Nhớ chơi núi

    Sai lòng muốn chở che quân mỏi

    Hoa ban về đêm. “

    Thán từ “ơi” dài miên man, đồng thanh gợi sự dịu dàng. Nỗi nhớ chơi vơi là nỗi nhớ không thể định hình mà buồn bã bao trùm thời gian và không gian. Hai dòng đầu của bài thơ, tác giả gợi lại những điều quen thuộc trong ký ức miền Tây. Một cuộc hành trình khó khăn, khó khăn, khó khăn xảy ra sau đó. Vùng núi Tây Bắc có nhiều địa danh nổi tiếng: Mahe, Sài Khao, Meng Lat, Muang Si, Pa Liang, Mai Châu, gợi nhớ cảnh núi rừng hùng vĩ, hoang sơ. Nhà thơ ngắt nhịp 3/4, phân định rõ cả lên và xuống trên con đường đi về hướng tây của mình. Từ ghép, từ phú được dùng để diễn tả khổ.

    “Trèo lên một khúc cua dốc,

    Con heo hút khói mây, súng thơm trời. “

    Khi chinh phục, bạn như đang bồng bềnh giữa biển mây. Chiều cao của bầu trời chỉ trong tầm súng. Không gian tạo cảm giác thoáng đãng và rộng rãi. Thơ Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí của tâm hồn người chiến sĩ. Người lính Tây Phương không chịu khuất phục trước thiên nhiên khắc nghiệt mà vươn lên trong hoàn cảnh thử thách.

    “Lên ngàn thước, xuống ngàn thước

    Ai đang mưa phía xa”

    Chinh phục đỉnh núi, mới khám phá ra độ cao “nuốt mây nuốt sương”. Cồn mây cho thấy núi mây chồng chất thành đồi dốc, sườn đồi cao đến nỗi đường lẫn vào mây khiến đường hành quân thêm gập ghềnh, phức tạp. Văn thiên là cách nói vui của người lính, qua đó nhà thơ cho thấy tâm hồn trẻ trung không quản ngại khó khăn gian khổ của người lính. Giữa mạch thơ và sự hung dữ của thiên nhiên, có một ánh mắt bay bổng: “Trời mưa nhà ai ngoài xa” quả là một sự liên tưởng thú vị. Nơi núi sâu rừng già, xuất hiện một ngôi nhà ấm áp khiến lòng người xao xuyến.

    Trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy, là sự hy sinh anh dũng của những người lính Tây Tiến:

    “Anh không đi được nữa,

    Một phát giết!

    Buổi chiều trầm ngâm,

    Đêm hổ trêu người. “

    Hành quân rừng núi hiểm trở cho ta nghe rõ từng nhịp thở dồn dập của bộ đội. Họ là những gương mặt dãi dầu sương gió, để rồi cuối cùng “ngậm mõm quên đời”. Từ “khô dầu” diễn tả sự gian khổ của người chiến sĩ trong cuộc hành trình. Người lính không còn bước đi được cùng đồng đội. Ngoài ra, “Guang Yong” cũng mô tả sự dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng của những người lính không sợ kẻ thù.

    “Nhớ cho cơm lên khói

    Mai Châu vào mùa thơm mùi lúa nếp. “

    Kết thúc chặng đường gian nan là hình ảnh cuộc sống thanh bình, yên ả. Làn khói lam và hương thơm dìu dịu của nếp hương gợi lên một cuộc sống bình lặng và tốt đẹp. Mai Châu bỗng trở nên thân quen qua câu thơ và cách diễn đạt đầy hoài niệm của Quang Dũng: nhớ tay tiên…

    Tây tiến nên thơ và đẹp như tranh vẽ dưới ngòi bút của Quang Dũng:

    “Đuốc thắp trong doanh trại,

    Này, bạn mặc cái áo đó từ khi nào vậy?

    Chạy giai điệu của cô gái nhút nhát,

    Âm nhạc về mục tử hình thành một hồn thơ. “

    Dưới ánh đèn rực rỡ của Lễ hội Đuốc hoa, buổi văn nghệ tỏa sáng rực rỡ trước ánh mắt ngỡ ngàng của các chiến sĩ, vô cùng sôi động. Giai điệu bí ẩn, nồng nàn và ngọt ngào đầy lôi cuốn. Bên cạnh tiếng kèn rộn ràng là vẻ đẹp của một cô gái mềm mại và e ấp. Với trái tim tươi trẻ và vui vẻ, những người lính miền Tây đã say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp của màn đêm.

    “Người về bến tre chiều hôm,

    Bạn có thấy những linh hồn dạt vào bờ không?

    Bạn có nhớ người đàn ông trên cây không,

    Mặt nước lay hoa?”

    Nhà thơ đang tập trung vào Hexi. Dáng đi bộ mềm mại và duyên dáng của Kazuki thể hiện sự lãng mạn của trái tim thơ mộng, đồng thời vẽ nên ảo ảnh của nỗi nhớ và sự tinh tế của cảm xúc.

    “Tây quân không mọc tóc,

    Quân xanh dữ dội. “

    Đội quân viễn chinh Tây Phương nhìn có vẻ oai phong và “hú hồn” nhưng thực chất khi vật tư y tế thiếu thốn, binh lính đang bị sốt rét kinh hoàng, gặp muôn vàn khó khăn, nguy hiểm. và thiếu hụt.

    “Đôi mắt trong veo gửi ước mơ qua biên giới,

    Trải qua một đêm mơ màng giữa những dáng hình xinh đẹp, thơm ngát của Hà Nội. “

    Trong khung cảnh khắc nghiệt, những người lính vẫn giữ tâm hồn lãng mạn mơ mộng về hình ảnh dễ thương của thiếu nữ Hà Nội. Giấc mơ về một Hà Nội thanh bình thật lãng mạn sâu sắc và là động lực tinh thần của các đạo quân phương Tây.

    Khát vọng chiến thắng, biểu hiện sự hy sinh anh dũng của những người lính Tây Tiến:

    “Biên giới và lăng mộ rải rác ở phía xa,

    Ra chiến trường không tiếc đời xanh.

    Áo thay đất

    <3

    Mong muốn của họ là ra đi và hy sinh bản thân. Đó cũng là lý tưởng cao đẹp nhất trong hành trình gian khổ của người lính. “Áo đưa anh về đất” ám chỉ sự hi sinh cao cả của người lính. Một dòng sông mã với tiếng gầm đại diện cho một cái chết hoành tráng.

    “Không có cuộc hẹn nào đi về phía tây,

    Đường lên đỉnh thăm thẳm.

    Xuân năm ấy ai về miền Tây

    Linh hồn sẽ không trở lại. “

    Kết thúc bài thơ đầy cảm xúc. Con đường về phía Tây, con đường đi đến thắng lợi, thật là gian nan, xa xôi, không thể với tới. Nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người chiến binh nhất định sẽ đè bẹp kẻ thù.

    Toàn bộ bài thơ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực tàn khốc của chiến trường bằng bút pháp lãng mạn, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và ý chí cao cả của người chiến sĩ miền Tây. Tương Tây mãi mãi là bài thơ mang ký ức đẹp của dân tộc, mang gánh nặng của thời đại ấm no, hạnh phúc và tranh giành sự sống.

    Phân tích thơ Tây – Văn mẫu số 1:

    Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong sáng tác thơ ca của ông trong thời kì kháng chiến chống Nhật 1945-1954. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật nhất trong lĩnh vực thơ ca là tập thơ “Mây và đầu” nổi tiếng, trong đó nổi bật nhất là thơ ca phương Tây.

    Bài thơ miền Tây này thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, lãng mạn và yên bình:

    “Mahe còn xa thì đi về hướng Tây

    Nhớ chơi núi

    Sai muốn sung quân

    Trong đêm thấp thoáng mái hiên hoa”

    Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ:

    “Mahe còn xa thì đi về hướng Tây

    Nhớ lên núi chơi rừng

    Nhà thơ đã đặt tên cho dòng sông Mahe là dòng sông chảy qua một số tỉnh phía Tây Thanh Hóa, gắn liền với những cuộc trường chinh của những người lính ở phía Tây. Bởi vậy, trong cảm nhận của nhà thơ, dòng sông là chứng nhân của lịch sử, là người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng bây giờ “Giang Nguyên…”, ký ức mưa gió năm xưa đã trở thành dĩ vãng xa xăm. Tuy nhiên, nỗi nhớ đồng đội vẫn luôn nóng hổi, ​​mới mẻ nên phải nói là “tiến Tây”. Nhà thơ gọi tên những đoàn quân đang tiến lên như gọi những người thân nhất của mình. Chỉ với một chữ “ơi”, người đọc dường như có thể cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, nỗi nhớ nhung, tình yêu thiết tha của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ Tây quân còn có nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng:

    Nhớ chơi núi

    Chỉ một dòng thơ nhưng với cách nói ám chỉ “kỷ niệm” ta như hiểu được những nỗi niềm bên trong của nhà thơ. Với nỗi nhớ “chơi vơi”, nhà thơ nhớ cảnh sắc thiên nhiên và nơi in dấu chân đoàn quân Tây tiến. Kwang Dong tràn đầy cảm xúc và cảm xúc trong nỗi nhớ, anh ấy thật tài năng. Loại “ký ức chơi vơi” ấy là một loại hoài niệm không rõ ràng, không đoán trước được, một loại hoài niệm cho phép con người thoát ly hiện thực, đắm chìm trong ký ức xưa cũ. Trong ca dao cũng có nỗi nhớ như vậy:

    “Luôn nhớ về nhà”

    hay xuan dieu cũng viết:

    “Hãy nâng cao trái tim của chúng tôi và chơi”

    Tuy nhiên, nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng có sức đọng lại rất lớn, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Hai câu thơ gợi lại những kỉ niệm đẹp xen lẫn chút bùi ngùi, hoài niệm. Ta như hiểu rõ hơn tâm hồn người nghệ sĩ, và Quảng Đông dường như đang xa rời thực tại, đắm chìm trong hoài niệm “chơi vơi”.

    Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh Tây quân hiện lên:

    “Khi nhìn sương che quân”

    Nhiều địa danh được nhắc đến trong bài thơ, có câu: “địa danh, tên làng, những cái tên đọc mà rưng rưng”, tức là những dấu ấn nơi dấu chân. Mỗi vùng đất đoàn quân đã từng đi qua, những địa danh sừng sững như những minh chứng sống động cho hành trình của đoàn quân. Từ câu ca dao trên, ta có thể hình dung rõ ràng cuộc hành trình. Hình ảnh “sương mù” gợi liên tưởng đến thời tiết, khí hậu phương Tây khắc nghiệt. Cuộc hành trình của họ, họ phải đi trong sương mù. Mệt mỏi là điều không thể tránh khỏi với mật độ mù mịt.

    Nếu những câu thơ trên miêu tả điều kiện thời tiết khắc nghiệt thì những câu thơ sau miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và tấm lòng của những người lính:

    “Mang Pian trở về vào ban đêm”

    quang dũng đúng là có tài dùng từ. Nếu nhiều người nói hoa nở mà nhà thơ lại nói “hoa nở lại nở” thì đây là một phép nhân hóa vô cùng độc đáo. Hoa có “khí đêm” mới là lạ, sao đêm không có sương? Chẳng lẽ là một đêm sương giá lạnh lẽo, ta sẽ không nhìn thấy hoa sao? Vì vậy, nhà thơ đã để hoa trong “đêm hấp”. Qua từ “đêm hấp” ta có thể hình dung ra không gian huyền ảo giữa núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy, muôn sắc hoa trở nên đẹp đẽ và lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai câu thơ tương phản, thể hiện sự cơ cực của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt nhưng đầy hương sắc nên thơ và đẹp như tranh vẽ. Người lính miền Tây phải rất tinh tế và lãng mạn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây và những vất vả của cuộc sống không làm mất đi tâm hồn phong phú trong thế giới tinh thần của họ. Vì vậy, bốn câu đầu của bài thơ thể hiện nỗi nhớ của người “đi về hướng tây”, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội-những người đã cùng sống chết lao vào nơi ấy. Cơn bão nổ ra.

    “Dựa vào khúc cua dốc

    Ngửi rượu, ngửi bầu trời

    Xem Thêm : Top 10 cây leo giàn xanh quanh năm chống nắng – Sài Gòn Hoa

    Đi lên, đi xuống

    Ai đang mưa ở phương xa

    Bốn câu được coi là những bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng phối âm, phối vần, ngôn từ của Quảng Đông. Đồng thời cũng là bức tranh hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên miền Tây. Ở khổ thơ đầu, thanh trắc dày đặc tạo nên sự chênh vênh, kết cấu không đồng đều trong từng câu. Đó có phải là những thăng trầm của con đường? Cặp từ “nghiêng” gợi hình ảnh những con dốc dựng đứng, khúc khuỷu và vô cùng khó khăn. Nếu “khúc quanh” có nghĩa là dốc đứng và gập ghềnh, thì “sâu” không chỉ có nghĩa là độ cao, mà còn là cái lạnh mà độ cao của vực thẳm thu hút. Trong những lúc hành quân gian khổ, dường như tôi có thể nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nặng nề của bộ đội. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh trong biển mây, tay súng chĩa lên trời. Bài thơ không chỉ gợi lên những tầm cao mà còn có chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên và đầy chất quân tử. Con đường bây giờ bỗng xa hơn, nhưng vẫn chưa hết:

    “Nghìn thước lên, ngàn thước xuống”

    Nhờ thơ có dụng ý nghệ thuật đặt dấu phẩy giữa dòng, dấu phẩy làm đôi dòng và cho ta hình dung ra một con đường quanh co, đầy gian nan. Đoạn thơ này được viết với một thủ pháp nghệ thuật tương phản độc đáo. Con đường này như nghìn thước, nghìn thước… Lên thì rất cao, xuống thì chóng mặt, bởi một bên là dốc đứng dựng đứng, một bên là vực thẳm vô tận. Rõ ràng, thiên nhiên ở Tây Bắc Trung Quốc rất hùng vĩ, dường như đang thử thách lòng dũng cảm và ý chí sắt đá của con người. Những người lính phương Tây đã phải vượt qua những khó khăn này một cách rất dũng cảm. Đoạn thơ như tả cảnh nhưng cũng nêu bật được ý chí cao cả của những người lính ở miền Tây.

    Nếu ba câu thơ trên có nhiều vần thì câu thơ sau gồm một loạt các từ đồng âm

    “Ai đang mưa ở phương xa”

    Những người lính hành quân về phía tây đôi khi dừng lại. Họ dừng lại ngắm nhìn những ngôi nhà sàn nằm nép mình trong núi và thung lũng sâu. Đâu đó trên đường đi, những người lính đã nhìn thấy Diaojiaolou, thứ dường như mang lại hơi ấm cho những đứa trẻ nơi chiến trường gian khổ.

    quang dung miêu tả rất chân thực những người lính đang hành quân. Dường như tên của những vùng đất và ngôi làng khác đều đã quá quen thuộc với họ. Rồi hình ảnh người lính thật oai hùng.

    “Bạn tôi không đi nữa

    Đắp mõm quên đời”

    Có ý kiến ​​cho rằng, trong hai câu thơ này, người lính đã ngủ với cây súng trên tay, nhưng cũng có quan điểm cho rằng chính sự hy sinh của họ mà người lính “không bước tới”. Nhìn chung, chúng ta nên hiểu những người lính đã chết. Sự hy sinh của họ thật thanh bình và nhẹ nhàng. Với họ, chết chỉ là đôi chân không còn bước đi, chết chỉ là chìm vào giấc ngủ. Những người lính ở đây chết trong tư thế hành quân: đầu vẫn đội mũ, súng lăm lăm trong tay. Hình như chúng ta đã gặp những người lính đã hy sinh trong Kháng chiến chống Mỹ xâm lược và viện trợ cho Triều Tiên:

    “Rồi tôi chết trong khi bắn

    Máu của bạn phun ra như những viên đạn cầu vồng”

    (Lý Khắc Xuân)

    Dù đắm chìm trong nghĩa cử hi sinh cao cả của những người lính, nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc vẫn đọng mãi trong tâm trí nhà thơ:

    “Tiếng gầm buổi chiều hùng vĩ

    Đêm hổ trêu người”

    Qua hai câu thơ tác giả gợi lên sự khốc liệt của chốn rừng thiêng, vực thẳm nước độc, vực thẳm chén rượu, tác giả đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên miền tây. Nhất là khi nhắc đến thời điểm “chiều, tối, tối”, người đọc dường như mới thấu hiểu được những gian khổ, vất vả mà người lính Tây tiến đã trải qua. Tây Bắc càng khắc nghiệt, binh lính càng dũng cảm. quang dũng viết về cuộc hành quân của những người lính miền tây với sự hiểu biết của một người từng trải.

    “Nhớ hút cơm nhé

    Mai Châu mùa thơm nếp hương”

    Trong cuộc hành quân, người lính nhớ đến hơi ấm của tình đồng đội trong trận chiến và hương vị của tình quân dân. Mùa nếp thơm bọc cam cứ thế đọng lại trong tâm trí mỗi người. Dường như trong thơ Quảng Đông, ta vẫn còn cảm nhận được hương thơm của gạo nếp, và những kỷ niệm xưa vẫn còn sống động trong mắt ta.

    Hai câu kết thúc bằng hình ảnh núi cao vực thẳm, hương lúa nếp thoang thoảng ở đoạn tiếp theo:

    “Doanh trại sáng rực

    Bạn đã mặc quần áo bao lâu rồi

    Chạy giai điệu của cô gái nhút nhát

    Về người chăn cừu xây hồn thơ

    Vào đêm hội, đèn được thắp sáng rực rỡ, ánh đuốc như đốm lửa trong đêm hội đầy màu sắc. Nếu vẻ đẹp thiên nhiên của miền Tây gợi lên vẻ quyến rũ u tối của núi rừng thì tất cả những điều đó giờ đã lùi xa. Các chiến sĩ đắm chìm trong tiếng kèn du dương và tiếng nhạc sôi động, tươi vui.

    Trong khung cảnh thiên nhiên ấy, những người lính miền Tây hiện lên thật oai hùng và cao đẹp:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    Quân xanh ôm tôm hùm

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Ở đây, hình ảnh người lính mới được hiện lên sinh động, nhà thơ sử dụng điệp từ “binh đoàn” với nhịp thơ khỏe khoắn, tràn đầy sức sống.

    Quân đội được mô tả là rất dị thường: “quân đội phía tây không có tóc dài”, và bệnh sốt rét khiến tóc của những người lính không mọc. “Quân xanh” này có thể hiểu là màu xanh của quân phục rằn ri, hay giống như căn bệnh sốt rét khiến người lính trông nhợt nhạt.

    Có nên hiểu đây là di chứng của bệnh sốt rét? Dọc đường bộ đội phải đi qua rất nhiều nơi rừng thiêng nước độc, hỏi làm cách nào để tránh được căn bệnh sốt rét kỳ lạ này.

    “Mắt đẹp gửi mộng qua biên giới

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Ước mơ ở đây là ước mơ đấu tranh cho đất nước. Từ “giận mắt trợn trừng” vừa hàm ý ý chí chiến đấu kiên cường của những người lính miền Tây, khát vọng xả thân vì từng tấc đất của Tổ quốc, vừa phản ánh khát vọng, hoài bão cao cả của tuổi trẻ.

    “Rải rác rất xa”

    Trong thơ chống Pháp tránh nói đến hy sinh mất mát, quang dũng nói nhiều, vì chiến tranh tránh mất mát hy sinh. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã dùng nhiều từ Hán Việt để tưởng nhớ đến sự hy sinh của người chiến sĩ này. Trên biên giới của đất nước này, có rất nhiều ngôi mộ vô danh. Những người lính phương Tây là những người lính vô danh, nhưng họ đã làm nên đất nước này. Chính vì vậy mà lời ca không chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu tiếp theo:

    “Sống xanh không tiếc chiến trường”

    Bài thơ nói về vẻ đẹp lí tưởng sống của những người lính Tây Tiến đã hi sinh không tiếc mạng sống cho chiến thắng Quốc ca: “Không tiếc”, hàm ý vô tội vạ. , giọng điệu , khắc khoải , câu thơ như khẩu hiệu của người chiến sĩ .

    Bao nhiêu người đã ra đi, sống theo phương châm quyết tử vì nước, đó là Wuxuan, Dang Cuichuan:

    “Chúng tôi rời đi mà không phàn nàn

    Nhưng tuổi 20 làm sao không hối tiếc

    Nhưng tuổi 20 ai cũng tiếc

    Còn đất nước thì sao”

    (Bài ca người thủy thủ)

    Các chiến binh hy sinh vì phương châm này, nên quang dũng tiễn đưa họ đi:

    “Chiếc áo phản chiếu anh về với đất

    Gió Tây Thì Thầm Một Mình

    “Áo” vốn là một loại áo quan trọng được vua chúa ban cho binh lính khi ra trận. Trên thực tế, những người lính phương Tây được chôn cất mà không có áo choàng để che thân. Trong ấn tượng của Quang Dũng, hai anh em trở về đất mẹ trong trang phục của những người lính kỳ cựu. Hình ảnh chiếc áo cà sa ấy vừa tô điểm cho cái chết của người lính, vừa là niềm an ủi cho những người còn sống. Thơ không bao hàm sự sầu muộn, yếu đuối, đau đớn dù nó nói về sự hi sinh, mất mát. Tiễn người lính về với đất mẹ thân yêu bằng sông mã gầm thét:

    “Sông Mahou”

    Nếu trong văn tế, nhà thơ cần khóc, trường quynh như khóc cho con người, thì ở đây quang dũng nói đến tiếng khóc tự nhiên. Đây là bài ca anh hùng liệt sĩ, một buổi lễ chia tay vô cùng thiêng liêng. Đây không phải là tiếng kêu của con người, nó là tiếng kêu của tự nhiên, điều bạn đã và đang làm.

    Những người lính Tây phương biết rằng họ sẽ không bao giờ trở lại và sẽ đối mặt với vực thẳm, nhưng những phôi thai chia cắt vẫn tiến bước, vì Tổ quốc cần họ.

    quang dũng viết chuyện người lính đi Tây, đầy hoài niệm, yêu thương, ngưỡng mộ, tự hào và tiếc nuối. Các nhà thơ viết theo phong cách lãng mạn hiện thực, nhưng nghiêng về chủ nghĩa lãng mạn nhiều hơn. Bài thơ đặc sắc ở thể, vần, hài, nhịp. Tất cả những điều đó tái hiện lại một thời dân tộc khó quên trong lòng người đọc. Đọc Hướng Tây ta sẽ hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống Pháp, hiểu thêm về đất nước ta trong thời chiến tranh, hiểu hơn giá trị của hòa bình, biết trân trọng hơn những kẻ mất, người còn. hy sinh. Sống trong độc lập tự do hôm nay.

    Nguồn: Bộ sưu tập

    Có thể bạn quan tâm: Thuyết Minh Chi Tiết Về Miền Tây Của Quang Dũng

    Nghe phân tích của Best Western

    Phân tích thơ Tây – Văn mẫu số 2:

    “Có một bài hát tôi sẽ không bao giờ quên…”

    Có một bài hát như vậy. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ, quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là những ngày kháng chiến chống Pháp, khi cả dân tộc ta vừa thoát khỏi nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp quay trở lại. Dấu ấn của nạn đói lớn năm 1945 vẫn còn hằn sâu trong mỗi người Việt Nam. Tự do hay trở về cuộc sống cũ? Đây là một câu hỏi làm phiền nhiều người. Theo tiếng gọi của tự do, nông dân, thị dân, học sinh, các mẹ, các chị… đã tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Trong những năm tháng không thể nào quên ấy, văn học tuy không thể nói là đã ghi lại toàn cảnh đất nước nhưng cũng ghi lại được cái hồn của một thời đại với hình ảnh của biết bao con người, mà tiêu biểu là anh bộ đội Cụ Hồ. “Hướng Tây” của Quang Dũng ra đời trong một bối cảnh như vậy.

    Bài thơ này được viết ở Lemon Fleet năm 1948 khi lượng dung di chuyển. Nhưng những tháng ngày chiến đấu dũng cảm và sống trong đoàn quân miền Tây không dài nhưng lại có những kỉ niệm khó quên nên nỗi nhớ miền Tây của tác giả da diết, sóng gió. Cả bài thơ là nỗi nhớ. Tác giả nhớ cuộc sống gian khổ, nhớ đêm hội, nhớ bóng tối, hoang vắng của núi rừng và da diết nhất là nỗi nhớ người lính ở miền Tây. Quang dũng trở thành một người lính sau khi chết trong chiến tranh khi còn trẻ học ở Hà Nội. Kỷ niệm đi lính miền tây xa gần, để nhớ lại tác giả phải bật lên :

    “Mahe ở xa về phía tây!”

    Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than, âm vần hùng tráng. Hình ảnh ấy, phải chăng là tiếng lòng dũng cảm vang vọng qua đoàn quân hành quân? Đừng ! Đó là nỗi lòng của tác giả “đi xa, đi tây!” nhưng trái tim vẫn rất chân thành! Những câu thơ da diết làm cho giọng Quảng Dung như xoáy vào hồn người đọc, và với cảm xúc câu đầu mang lại, anh đến với nỗi nhớ miền Tây:

    “Nhớ sông nhớ chơi”

    Nỗi nhớ mới có gì sai? “Nhớ chơi với nhau”! Hình như ta đã bắt gặp trong ca dao:

    “Nhớ những người bạn mà chúng ta có thể chơi cùng”

    Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ khó nắm bắt đã được diễn tả thành lời. Nỗi nhớ ấy vừa sâu lắng vừa rộng lớn. Nó sẽ tràn ngập không gian và lơ lửng trong lòng người. Một người ngoài cuộc có thể không trải nghiệm nỗi nhớ đó. Chỉ những người đàn ông dũng cảm và có trái tim mới có được ký ức đó. Trân trọng, “nhớ chơi” có ý nghĩa hoàn hảo. Vần “ơi” vẫn được sử dụng và bài thơ này được truyền bá rộng rãi. Vần của tiếng “ôi” được phát triển theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.

    Thông thường, khi nhớ lại điều gì đó, người ta thường nghĩ về những kỷ niệm để lại ấn tượng khó quên. Nỗi nhớ đầu tiên của Quang dũng là về núi rừng: “Nhớ núi rừng…”. Khu rừng là nơi tác giả và đồng đội từng cùng nhau chung sống, chiến đấu. Núi rừng in đậm những nỗi khổ, niềm vui, nỗi buồn của người lính. Tác giả là người tinh thông hơn ai hết, tác giả nhớ đến núi rừng và những gian khổ mà mình đã trải qua:

    “Xin lỗi vì quân đội mệt mỏi

    Mạnh Pian hoa trở lại vào ban đêm

    Đường cong, dốc

    Ngửi rượu, ngửi bầu trời

    Xem Thêm : Top 10 cây leo giàn xanh quanh năm chống nắng – Sài Gòn Hoa

    Đi lên, đi xuống

    Ai đang mưa phía xa”

    Mặc dù những khó khăn vất vả của cuộc sống không phải là điều mà nhà thơ tập trung vào, nhưng những nguy hiểm của núi rừng vẫn đang bày ra trước mắt chúng ta. Người đứng đầu nhà thơ đã từng có một câu thơ như vậy:

    “Năm mươi sáu ngày đêm đào núi, ngủ hầm, dầm mưa, vắt cơm

    Máu và Bùn

    Gan không động thì chí không phai! “

    Cơ hội mô tả cuộc sống trong quân ngũ. Quang dũng không làm thế, quang dũng chỉ miêu tả sự hoang vu hoang vu của núi rừng, nhưng qua khung cảnh ấy, ai cũng hiểu đời người lính là như vậy. Họ sống trong tự nhiên như thế này. Với những địa danh xa lạ “sài khao”, “mường lát”, “pha luồng”, núi rừng dường như trở nên xa vắng, hoang vắng hơn. Hơn nữa, đoàn quân Tây tiến hầu như toàn là trai tráng Hà Nội nghe theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều em còn là học sinh nên khung cảnh núi rừng càng thêm lạ lùng, hãi hùng. Quang dũng là người hiểu rất rõ tâm lý này. Tình yêu của Hoài Sơn bắt đầu từ hành quân.

    “Tôi xin lỗi vì đã che giấu sức lao động của bạn.”

    Đời người lính, cuộc hành quân qua đi, cuộc hành quân mới lại tiếp tục. Nhưng có lẽ nỗi nhọc nhằn của buổi đầu hành quân sẽ không bao giờ tan biến theo năm tháng, và câu thơ “Tiếc che đoàn quân mòn mỏi” sương mù ấy sẽ mãi in sâu, những câu thơ rũ rượi, gợi sự mỏi mệt, nhắc chúng ta về ngày Tây quân sắp thất thủ , sắp chìm vào trong sương mù. Nhưng không, âm điệu của bài thơ được nâng lên bởi vần điệu:

    “Mang Pian trở về vào ban đêm”

    Bài thơ này làm giảm bớt sự mệt mỏi của quân đội phương Tây và cho phép quân đội tiếp tục. Khó khăn rải rác trên đường đời lính:

    “Dốc cong, dốc

    Ngửi rượu, ngửi bầu trời

    Đi lên hàng km, đi xuống hàng km”

    Hình ảnh “khúc khuỷu” khiến người đi đường có cảm giác đường khó đi quá! “Dốc sâu” làm cho những khó khăn như dài thêm, dài ra theo tính chất “sâu” của dốc, trên những con dốc ấy “tiếng súng đã vang”. Chỉ “nuốt mây” mới gợi cho người ta sự hoang vắng của núi rừng, không khí mưa bom bão đạn và dáng vẻ cô đơn của những người lính ở Cao Quan.

    Dù khó khăn nào cũng được giải tỏa bằng bài đồng dao sau:

    “Ai đang mưa ở phương xa”

    Như vậy, vần đơn giản xen lẫn nhịp điệu, làm cho giọng điệu của bài thơ thêm trùng lặp, giọng điệu này xuyên suốt cả bài thơ, cộng với cách dùng từ Quảng Đông cổ. thơ. Toàn bộ đoạn đầu nói về những khó khăn của vùng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước hình ảnh dữ dội ấy, ai cũng trăn trở: Người lính sống sao đây?

    “Bạn không thể đi được nữa

    Bắn súng

    Tiếng gầm chiều trang nghiêm

    Đêm hổ trêu người. “

    Quảng Đông miêu tả những khó khăn gặp phải khi tiến quân về phía tây trong Chiến tranh chống Nhật Bản rất chân thực, nhưng không làm cho thơ bi lụy, bi quan mà chỉ ca ngợi những người lính. Tác giả tiếp tục đưa ta đến với những người lính cũng bằng ngòi bút rất thực. Trước những gian nan, trên đường đi, nhiều người không thức dậy ở đất khách quê người:

    “Bạn không thể đi bộ”

    Nhưng những con người đã ngã xuống đó là những anh hùng! Người lính không chịu hy sinh và thấy mình trong tư thế hấp hối của người lính:

    “Bỏ súng quên đời”

    “Quên đời” chỉ là một cách xoa dịu nỗi đau mất mát của những người lính tử trận. Nhưng hình ảnh được sử dụng là một hình ảnh rất đắt tiền “ngã súng”. Sau này, tôi chợt nhớ đến tư thế của Quân giải phóng nhân dân:

    “Anh ấy bị ngã khi bắn

    Máu của bạn phun ra cầu vồng lửa”

    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và viện trợ cho Triều Tiên, tư thế hiên ngang của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa mãi mãi ăn sâu vào lòng dân, hình bóng người lính già ngã xuống sẽ không phai mờ trong tâm hồn Quảng Đông, Tây quân, và toàn quân.Những người tham gia cuộc chiến. “Ngã vào mõm” cũng là một cách nói nhẹ nhàng, đồng thời cũng là một cách nói của lớp thanh niên trí thức thời bấy giờ. Người lính bỏ đi, nhưng đồng đội của anh ta theo sau. Khó khăn lại đến:

    “Chiều chiều thác hùng vĩ gầm rú

    Đêm hổ trêu người. “

    Hình như có người nói về cách dùng từ “mường hịch” của lượngg dung. Địa danh đọc như tiếng vó hổ đi trong đêm. Núi và rừng trở nên kỳ lạ trong vẻ đẹp hoang sơ của chúng. Nơi xa, người đặt chân đến trước, thiên nhiên làm vua, khó khăn nhân lên gấp bội. Nhưng trên đường đi, sự lạc quan và vui vẻ của những người lính không bao giờ biến mất.

    “Nhớ hút cơm nhé

    Mai Châu vào mùa thơm mùi lúa nếp. “

    quang dũng nhớ lại những đêm tiệc tùng. Nhịp điệu câu thơ hình như có gì đó phấn khởi:

    “Đèn trong doanh trại sáng

    Này, bạn mặc cái áo đó từ khi nào vậy

    Chạy giai điệu của cô gái nhút nhát

    Về âm nhạc của mục đồng định hình tâm hồn

    Người đến Châu Mộc chiều sương mù ấy

    Còn nhớ những linh hồn dạt vào bờ không?

    Nhớ số trên cột

    Dòng nước lay hoa lay động. “

    Sự hoang dã tự nhiên của hai quý đầu dường như đã biến mất sau những kỷ niệm đẹp về Tây quân. Nét vui tươi, tinh nghịch của những chàng trai trẻ Hà Nội ăn mặc như con gái, cùng với âm nhạc và vẻ e thẹn giả vờ. Câu thơ “Trông em” cộng với nụ cười của người lính vừa vui vừa dễ chịu. Những kỉ niệm đẹp ấy sẽ không thể nào quên bởi nó sẽ còn nguyên vẹn trong lòng mỗi người. Hài hước đồng thời, người lính miền Tây sống động với bản lĩnh lãng mạn, tâm hồn thơ mộng, giàu cảm xúc. Bóng dáng bên tùng trong sương chiều, chùm hoa đung đưa trong lũ… tất cả nhẹ nhàng đi vào thơ ca. Quang dũng xa miền tây nhưng không lâu nên nỗi nhớ miền tây vẫn nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” xuyên suốt cả bài thơ, nhưng tập trung nhất vẫn là nỗi nhớ người lính đánh Tây. Có lẽ đó là những người lính miền Tây, mà hình ảnh đó đã thấm vào máu thịt của tác giả:

    “Tây quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh”

    Đoạn đầu miêu tả đầy đủ những người lính kháng chiến dưới cái tên “lính chân đất”. Nơi núi rừng cằn cỗi, sốt rét là căn bệnh phổ biến của bộ đội. Sốt rét làm hói cả đầu, chỉ còn lưa thưa vài sợi tóc lưa thưa, da “màu lá mạ”. Sốt rét tàn bạo như chính nghĩa đã từng mô tả:

    “Sốt, trán ướt mồ hôi.”

    Sốt rét là căn bệnh điển hình của người lính, Quang Dũng nói đến đây, tác giả cũng muốn nói với chúng ta rằng lính Tây sinh sống là thế! Họ sống để đánh giặc, nhưng phải chiến đấu với gian khổ và bệnh tật. Bất chấp mọi khó khăn, người lính này vẫn là “quân xanh oanh liệt”. Sự hung dữ của lính Tây nơi đây không làm giảm đi hình ảnh lính Tây trong lòng chúng tôi. Ốm đau, bệnh tật tưởng chừng là một người lính yếu ớt, nhưng chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ ngoài “khủng khiếp” của người lính. “Đáng sợ” loại bỏ điểm yếu của “Đội quân không tóc” và “Quân xanh”, và câu thơ trên giúp tiếp tục câu thơ sau:

    “Đôi mắt trong veo gửi ước mơ qua biên giới

    Đêm mơ trong hương sắc Hà Nội”

    Đây là hai câu tập trung nhất miêu tả bức tranh đoàn binh tiến về phía Tây, đồng thời cũng là hai câu hay nhất trong cả bài thơ. Lính Tây sống trong hình ảnh Hà Nội quê hương, chiến đấu vì tương lai trước mắt. Hai câu thơ vừa lãng mạn vừa hào hùng. Ánh mắt của những người lính “đăm đăm”, nhưng không có chút hung dữ nào, chỉ có sự kiên định của họ. Họ quyết tâm chiến đấu vì Tổ quốc và vì Tổ quốc, đó là tiếng nói của tất cả mọi người. Hai câu thơ trên đã cùng với bài thơ bị phê phán là buồn bã, bi quan, tiểu tư sản. Dĩ nhiên là buồn, nhưng cái buồn ở đây không làm cho những người lính Tây mất đi quyết tâm. Quyết tâm giết giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hòa với nhau thì mới tạo nên vẻ đẹp tinh thần sâu sắc của người lính. Điều này đã từng, vì lý do lịch sử, bị lãng quên hoặc cố tình lãng quên vì một lý do nào đó. Những người lính phương Tây đã chiến đấu vì ai? Nếu không phải quê hương của họ, mà đặc biệt là Hà Nội, mục đích của họ là gì. Khi những người lính mơ về Hà Nội, về những thiếu nữ Hà Nội, chính những giấc mơ ấy đã tiếp thêm sức mạnh để người lính sống và chiến đấu. Hai tuyến chính thật lãng mạn và thật hào hùng!

    Lính Tây đã trải qua bao nhiêu gian khổ? Trên đường đi, biết bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì sự khắc nghiệt của rừng núi, vì bệnh tật, vì chiến trận.

    “Những ngôi mộ nằm rải rác ở biên giới.”

    Xem Thêm : Vỡ nợ an toàn

    Những bài thơ đọc lên quá bi thảm. Biết bao người ở lại những nơi xa lạ, không ai qua lại và không bao giờ quay trở lại. Từ “san” khiến ta có cảm giác binh lính ở phương Tây đang ngã xuống, nhiều người đã ngã xuống trong trận chiến, khiến ta cảm nhận được sự lạnh lùng của cái chết. Từ “xa” vừa tạo sự xa lạ, lạnh lẽo của núi rừng, vừa gợi nỗi cô đơn của kẻ ở lại. Những câu thơ trầm thấp đọng lại trong lòng ta một nỗi buồn khôn tả, tưởng những câu thơ sau không diễn đạt được, nào ngờ lại ngược lại:

    “Sống xanh không tiếc chiến trường”

    Những câu thơ nhẹ nhàng, như không mang bi kịch của nấm mồ xa. Phần đầu tiên tạo phần “kép” và phần thứ hai tạo tính năng “intaglio”. Không khí bi quan đã không còn, chỉ còn lại nét mặt đôn hậu, điềm tĩnh của người lính Tây. Nói “sống xanh không tiếc” là Đạo của người trí thức trẻ Hà Nội, và nó cũng mang lý tưởng đấu tranh. Không phải họ không tiếc tuổi thanh xuân của mình. Đây chẳng phải là “tuổi trẻ là mùa xuân” sao! Nhưng cao hơn tuổi trẻ của họ, họ còn có tự do và một mái ấm. Những người đứng sau bày tỏ tấm lòng của họ với họ. Chính vì thế lính Tây không tiếc sống xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:

    “Chiếc áo phản chiếu anh về với đất

    Ma He hót vang”

    Việc dùng từ “áo dài” làm cho lời thơ thêm giản dị. Anh ra đi mãi mãi, nhưng anh ra đi vì cuộc đời nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “sự trở về”. Và, việc Quang Brave vô tình dùng cụm từ “trở về Trái đất” để xoa dịu nỗi đau liệu có đúng không? Quang dũng không muốn một giọt nước mắt nào rơi trên những người lính đã chết. Những người lính phương Tây sống cuộc đời của những anh hùng lãng mạn đã phải chết như thế này. Chính vì thế tác giả có dụng ý dùng từ cổ kính và nói với giọng điệu của một người lính Tây tiến. Quang dũng muốn những người lính miền Tây chiến đấu vì quê hương và sự ra đi của họ nhẹ nhàng thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ bồng con yêu, như người lính ngủ trong lòng mẹ. Vậy là anh đã chết xa nhưng hồn về với đất mẹ. Bài thơ vì thế mất đi tính bi tráng vốn có. Lính tử trận, Tổ quốc ôm vào lòng, sông núi hát tiễn biệt:

    <3

    Không có giọt nước mắt thương tiếc. Chỉ có sông núi, quê hương chứng kiến ​​cái chết của anh. Bóng dáng anh hòa vào cảnh vật, hòa quyện với đất mẹ. Người lính Tây Tiến bước đi nhưng hình ảnh anh không bao giờ phai mờ trong tâm trí mọi người. Hình ảnh và ký ức về những người lính sẽ mãi ở trong trái tim, trong mỗi chúng ta.

    “Không có cuộc hẹn nào đi về phía tây

    Đường lên đỉnh thăm thẳm chia cắt

    Ai về miền Tây xuân ấy

    Linh hồn sẽ không trở lại. “

    Bài thơ đã hết nhưng âm điệu còn vang vọng sâu thẳm trong tâm hồn mỗi chúng ta. Bài thơ có vần điệu xúc động, đậm chất lãng mạn, đã để lại cho chúng ta ấn tượng sâu sắc. Có tác phẩm ta đã xem nhiều lần rồi quên, nhưng có tác phẩm ta chỉ xem một lần mà sống mãi. Đó là phương Tây! Hình ảnh người lính miền Tây sáng ngời hương sắc dân tộc!

    Nguồn: Bộ sưu tập

    » Xem thêm:

    • Phân tích hình tượng người lính trong thơ ca phương Tây
    • Nhận xét về khổ thơ đầu tiên của bài thơ
    • Phân tích một bài thơ ngắn miền Tây – Văn mẫu số 3

      quang dũng là nhà thơ tiêu biểu trong nhóm thơ chiến sĩ. Chất thơ hào hùng, lãng mạn trong các tác phẩm của ông vẫn còn vang mãi trong lòng người đọc. “Hướng Tây” là một tác phẩm như vậy.

      Sijin là tên của một đội quân chủ yếu gồm sinh viên Hà Nội. Khi quân đội được thành lập vào đầu năm 1947, đại đội trưởng là Guangyong. Cuối năm 1948, Quang Dũng được chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Liuliu, ông đã viết bài thơ “Hồi tưởng Xitian”, bài thơ này sau đó được in trong “Umbrella Chuyun” và đổi tên thành Xitian. Điểm nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong từng câu thơ. Khởi đầu của tác phẩm là một kỷ niệm dài.

      Ma Jiangyuan, đi về phía tây

      Nhớ chơi núi

      Tác giả đã đặt tên cho Ma He – một nhân chứng theo dấu chân đoàn quân. Kuang Yong nhớ đồng đội và “nhớ núi rừng”. Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, gặm nhấm để rồi hóa thành tiếng kêu gọi “Tây tiến”. Nét nghệ thuật của hai dòng đầu là vần “oe” và tiếng lóng “chơi vơi”. Với sự thành công của đặc điểm này, nhà thơ đã thể hiện trọn vẹn cảm xúc của mình. Nỗi nhớ của anh là vô tận, sóng gió và không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ trong lòng vang lên.

      Nhớ đến Tây Thiên là nhớ đến những gian khổ trên đường hành quân. Nhà thơ nhắc đến một loạt địa danh trong câu sau: sai khao, mường lát, pha Luông, mường hịch, mai châu. Đây đều là những nơi tuyệt đẹp và hoang vắng, và chúng đều là minh chứng cho sự gian khổ của quân viễn chinh phương Tây.

      Sai muốn sung quân

      Mạnh Pian hoa trở lại vào ban đêm

      Hai bài thơ này thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng. Trong đêm cao nguyên se lạnh, sương mù dày đặc bao phủ, tuy “mệt” nhưng đường hành quân vẫn đẹp, vẫn đẹp như tranh “hoa rơi đêm về”. Những câu thơ sau thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. Một chuỗi từ miêu tả chặng đường gập ghềnh đã miêu tả chân thực thiên nhiên hoang sơ của núi rừng: “lên dốc lên dốc, xuống dốc lên dốc”. Như bị cắt làm đôi, bài thơ “khúc quanh co, khúc khuỷu dốc đứng” diễn tả rõ nét khúc khuỷu của đường núi và sự thăng trầm của con đường. Điều này còn được nhân lên bởi “số km tăng, số km giảm”. Hành trình ấy cứ lặp đi lặp lại trùng điệp. Tuy nhiên, trước thiên nhiên hoang sơ kỳ vĩ, đó là hình ảnh “ngửi trời”. Đây là hình ảnh lãng mạn, đẹp đẽ của người lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. Những câu thơ khiến người đọc có cảm giác như mũi súng vươn tới trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí kiên cường của người lính quyết tâm chinh phục mọi đỉnh cao, tiến tới “khó khăn trăm bề, địch ta cũng đánh thắng”. Giữa thiên nhiên hoang dã ấy, tinh thần của những người lính vẫn rất quật cường:

      Bạn không thể đi được nữa

      Một phát giết!

      Buổi chiều trầm ngâm,

      Đêm hổ trêu người

      Quang Dũng đã tái hiện lại sự thật đau đớn của cuộc hành quân bằng một ngòi bút chân thực. Biết bao người đã qua đời, “đi không nổi”. Nhưng hình ảnh thể hiện trong bài thơ này không phải là bi tráng mà là một người anh hùng “ngả súng quên đời”. Với khí thế hiên ngang “không tiếc trận mạc, đời xanh”, các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với cây súng, nón cối. Hình ảnh những người lính hi sinh vẫn ăn sâu vào lòng người đọc. Không ngoa khi nói rằng “tượng đài tự do được xây dựng bằng máu và nước mắt”. Quân đội gặp phải những khó khăn mới. Đó là sự nguy hiểm của rừng, đâu đâu cũng có “hổ vồ”, “thác gầm” rình rập. Nhưng không vì thế mà lính Tây chùn bước. Ngược lại, họ cũng lạc quan nhớ đến sự ấm áp của người dân nơi đây, “Nhớ ôi, khi chúng ta đến Diên Mai Châu, bạn có thể ngửi thấy mùi gạo nếp”. Cụm từ sáng tạo “mùa của em” chứa đựng quá nhiều tình cảm và nỗi nhớ của tác giả.

      thơ quang dũng có hiện thực phũ phàng cũng có lúc lãng mạn vui tươi:

      Doanh trại sáng trưng hoa nở, kìa anh chưa mặc áo. Bài hát này nói về việc xây dựng một mục tử của những tâm hồn thơ mộng.

      Những ai đã đến Zhoumu vào buổi chiều đầy sương mù đó, bạn có thấy linh hồn đang lướt trên bờ không? Nhớ dáng người trên cây thông, bồng bềnh trong nước và những bông hoa đung đưa?

      Khổ thơ này làm thay đổi tâm trạng của cả bài thơ. Bằng giọng văn vui tươi, lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy được sự phô trương của những người lính ở miền tây. Đêm liên hoan văn nghệ đậm đà tình quân dân ấy đã in sâu vào tâm trí dũng cảm của anh và khiến anh không thể nào quên. Những cô gái Thái xinh đẹp trong trang phục Xiêm e thẹn theo điệu nhạc của Khan khiến binh lính kinh ngạc. Với tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã sử dụng “hồn rơi” và “hoa đung đưa” để miêu tả cảnh chiều mơ màng của Châu Mộc trong sương chiều. Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh người lái đò trong cơn lũ? Thơ Quang Dũng vẽ nên một bức tranh tuyệt vời về sự duyên dáng hồn nhiên của con người và cảnh vật.

      Tiếp nối mạch thơ, đó là hình ảnh người lính Tây Tiến, với vẻ đẹp lạ lùng:

      Đội quân không mọc tóc

      Đội quân xanh hùng mạnh

      Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

      Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

      Phong cách viết hiện thực một lần nữa được Quảng Đông thực hiện. “Đội quân không mọc tóc”, “quân xanh” là kết quả của việc chống sốt rét. Thời kỳ này, bộ đội ta chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, thậm chí cả phương tiện chiến đấu. “dày”. Lính ta thường tử chiến ngoài chiến trường, nhưng dù với ngoại hình thế này, lính tây vẫn kiêu hãnh, dũng mãnh nhưng không hề yếu đuối. “Bài thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc và “gửi mộng vượt biên” không làm giảm đi sự lãng mạn của những người lính. Họ vẫn nhớ quê hương và người con gái của thành phố.

      Biên giới xa xôi

      Sống xanh không tiếc chiến trường

      Áo thay đất

      <3

      Hơi thở của cái chết dâng lên trong câu thơ này. Một màu u ám, u sầu bao trùm lên khổ thơ này. Nhưng trong văn của Quang Dũng, có vẻ buồn mà không buồn. Tinh thần của những người lính rất rõ ràng. Họ quyết tâm “sống xanh không tiếc gì” đem lại độc lập cho Tổ quốc. Họ ngã xuống, nhưng máu họ vẫn chảy. “Chiếc áo choàng chỉ cho anh ta vùng đất” là một cách nói nhẹ nhàng. Người liệt sĩ về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh Mã He lại hiện ra, như tiễn đưa linh hồn của những người lính.

      Hướng Tây

      Đường sâu, đường xa

      Ai về miền Tây xuân ấy

      Những linh hồn xấu xa sẽ không trở lại

      quang dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của các chiến sĩ miền Tây. Họ ra đi không “hẹn trước”. Họ trở về vô định, quyết giành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần “ra đi không trở lại” của lính Tây cũng là tinh thần của các cựu chiến binh thời bấy giờ.

      Với phong cách nghệ thuật hiện thực và cảm hứng lãng mạn, quang dũng đã tạo nên một bài thơ tuyệt vời. Chân dung những người lính hành quân về miền Tây được khắc họa sinh động qua những vần thơ và nỗi nhớ đồng đội của tác giả. Quả thực, “Tây Du Ký” xứng đáng là bản anh hùng ca của nền thơ ca cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

      Nguồn: Bộ sưu tập

      Phân tích thơ Tây – Văn mẫu số 4

      Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đây là nơi quy tụ của hàng trăm triệu trái tim yêu nước, là môi trường để thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của quân dân ta. Cuộc kháng chiến chống Nhật cũng cho ra đời nhiều hình ảnh đẹp, trong đó đẹp nhất là hình ảnh người lính.

      Ngoài những bài thơ nổi tiếng lúc bấy giờ như “Chính nghĩa đồng chí” và “Câu chuyện về Hongyuan”, “Tây du ký” của Quảng Dũng là một bài thơ độc đáo. Khắp các nẻo đường Hà Nội. Có rất nhiều học sinh trẻ thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời bỏ sách giáo khoa, vừa tham gia cuộc đấu tranh cứu nước. Tất cả những con người này đều có chung lý tưởng là dân tộc, cùng phấn đấu bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn trước và trở lại chiến đấu với mục đích “phục quốc, hưng vong”. Hình ảnh này là niềm tự hào của cả một thế hệ và đã được thể hiện trong một bài hát thời bấy giờ:

      Sau khi Vệ binh Quốc gia rời đi,

      Không có ngày nào được trả lại.

      Trong nhóm người hăng hái đấu tranh này, hôm qua còn trong hàng ngũ trí thức trẻ, có khi là tự vệ chiến đấu trên đường phố, rào chắn Hà Nội, mà hôm nay lại nằm trong nhóm này. Khi quân đội tiến lên, một khuôn mặt xuất hiện: Quảng Đông, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức Hà Nội lúc bấy giờ, Quang Dũng cũng có nguyện vọng đi Tây quân với nhiệt huyết tuổi trẻ và tình cảm lãng mạn của một “quý tử” trẻ tuổi có thế lực trong nước. Tuân phục và chinh phục:

      Tạm biệt trong chiếc áo sơ mi

      Cây khô

      Lan bằng sơn Thái nhẹ như phấn.

      Vì vậy, những người trẻ tuổi như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để chiến đấu cho đến ngày chiến thắng cuối cùng. Ở miền Tây, Quang Dũng sống và chiến đấu ở đơn vị này một thời gian, rồi chuyển sang đơn vị khác. Một hôm ngồi dưới gốc cây bồ đề, Vương Dũng nghĩ đến những người đồng đội trong vòng tay của mình, những năm tháng chiến tranh gian khổ, những đoàn quân năm xưa và chặng đường hành quân mà ông và đoàn quân đã đi qua. Nỗi nhớ ấy lớn dần trong ánh sáng và biến thành hai bài thơ:

      Mahe ở xa và về phía tây!

      Nhớ chơi trên núi và trong rừng.

      Cuộc đời chiến đấu ở miền Tây, cùng những nơi đoàn quân đi qua hẳn là một kỉ niệm sâu sắc trong lòng nhà thơ. Một phần của cuộc sống quang gắn liền với phương Tây có thể là một cuộc sống năng động ở vùng núi. Chính vì vậy, khi nghĩ đến miền tây nhà thơ nghĩ ngay đến Mahe và núi rừng, với bao kỉ niệm buồn vui, ấn tượng về núi rừng khắc nghiệt đã để lại dấu ấn khó phai trong tâm hồn nhà thơ. Thế là quang dũng nhớ lại những tháng ngày yêu thương nhưng không biết gọi tên là gì. Nhớ chơi chung nhé! Cả hai vở kịch được sử dụng ở đây đều đáng yêu, thể hiện một nỗi nhớ không hình ảnh, không khối lượng, nhưng có vẻ nặng nề và đầy rộng lớn. Tâm trạng nhớ nhung này đã hơn một lần bắt gặp trong ca dao:

      Anh nhớ em ở nhà

      Hoặc:

      Hãy nhớ bạn là ai,

      Như đứng trên đống lửa, như ngồi trên đống than.

      quang dũng dùng nỗi nhớ trong ca dao để làm thêm trứng cho nỗi nhớ của mình, thật là một chi tiết đắt giá! Mở đầu bài thơ, ông miêu tả miền núi một cách nghiêm túc, ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của người đọc. Nhớ miền tây sông Mahe núi non đường hành quân:

      Sai muốn sung quân

      Mạnh Pian hoa trở lại vào ban đêm

      Dựa vào một khúc cua dốc

      Ngửi rượu, ngửi bầu trời

      Nghìn thước lên, ngàn thước xuống

      Ai đang mưa ở phương xa

      Con đường hành quân trùng với sự hiểm trở, dữ dội của rừng núi biên cương. Đọc bài thơ này, chưa cần nghĩ đến nội dung, chúng ta đã hình dung được con đường mà Quảng Đông miêu tả. Cấu tứ thơ luôn ngạnh chằng chịt, vươn dài miên man, như một con đường dài quanh co. Bản nhạc mượt mà và liên tục. Tây quân hành quân trong sương mù dày đặc khắp núi rừng, khắp nơi trong sương mù đều có ánh đèn lung linh, tưởng như chân thực mà hư ảo. Tuy nhiên, mỗi địa danh đều gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh xa xôi, kỳ lạ, chỉ cần thử thay một cái tên khác cho sai khao, thì làn sương huyền ảo sẽ tan biến trong tích tắc. Tây quân sải bước tiến lên, con đường ngàn dặm gập ghềnh gập ghềnh. Lên khúc cua thì dốc đứng, lên cao ngàn thước xuống ngàn thước, xứng với độ cao, ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Những đặc điểm này đều nói lên sự khó khăn trong hành quân của Tây quân. Nó nắm bắt được sự khắc nghiệt hung dữ của núi rừng. Thuật ngữ quang dũng rất tinh tế và nghịch ngợm: núi chạm mây tạo thành cồn cát duyên dáng, và để diễn tả độ cao của núi thì chỉ có ba chữ: súng ngửi trời, nghe buồn cười. Đó phải chăng là tên lính được Quang Dũng ghi là nội gián? Tóm lại, qua sự kết hợp từ ngữ, chi tiết và giọng điệu của bài thơ này, hình ảnh miền rừng núi đoàn quân Tây tiến qua cũng được khắc họa hiện ra trước mắt. Một số dòng sử dụng tốt tất cả các vần:

      Ai đang mưa ở phương xa

      Hàng cây số ngược hàng cây số, người lính Tây hành quân như đứng trên đỉnh núi cao nhìn xuống thung lũng mưa che. Những ngôi nhà như bồng bềnh trong màn mưa trắng xóa. Giọng nói phát ra từng chữ, rộng lớn vô biên, miêu tả cơn mưa trong thung lũng. Rừng núi trùng điệp, ấn tượng về núi rừng cũng khắc nghiệt, hùng vỹ:

      Tiếng gầm chiều trang nghiêm

      Hổ đêm trêu người.

      Chỉ có hai câu thơ nhưng đã gieo vào lòng ta sự khắc nghiệt của ngọn núi này – ngọn núi u ám, nơi thú dữ đe dọa loài người. Đặt hai chữ mường cạnh nhau đọc giống như vết chân hổ. Lạ thay, nếu thay địa danh này bằng hai chữ khác, chẳng hạn châu thuận, thì lập tức giảm giá trị của câu thơ này. Qua sự miêu tả của quang dũng, núi rừng bìa rừng thể hiện sự khắc nghiệt, hung dữ của thiên nhiên. Đây là khó khăn mà những người lính miền Tây phải vượt qua trên đường hành quân. Những gian nan, vất vả trên con đường đi về hướng Tây bỗng làm chúng tôi nhớ đến bài thơ của Liebach:

      shu dao chi nan, nan thuong thanh thien.

      (Đường đi thật khó, mà trời xanh còn khó hơn).

      Đây là những gian khổ và nguy hiểm tự nhiên mà những người lính ở phía tây phải chịu đựng.

      Bạn không thể đi được nữa

      Ngã mũ và quên đi cuộc sống của bạn!

      quang dũng nói thật trên đường về tây. Nhiều người lính vẫn tiếp tục hành quân. Một điều lạ lùng xuyên suốt cả bài thơ là người lính miền Tây vẫn thử tư thế người lính nằm dưới đất, chết mà súng còn, hành trang của người lính vẫn ở vị trí tiếp theo. tiếp tục đi du lịch. Đủ thứ gian nan, vất vả, hiểm nguy trên đường hành quân, cũng như phong tục nơi xứ lạ quê người, tất cả đều đang thử thách người lính miền Tây một cách ghê gớm. Có những người lính đã sống sót, và nhiều người phải ở lại. Người lính rê bóng mưa nắng, hết khó khăn này đến khó khăn khác, hết thử thách này đến thử thách khác, mà hình như vẫn không nể nang;

      Mặc dù Guangyong nói sự thật về những ngọn núi che trời và mặt trời, nhưng chính phẩm chất cao quý của những người lính đã cho phép họ vượt qua gian khổ và thiếu thốn và leo lên đỉnh cao. Quang Dũng là người trong cuộc, còn rừng là lính miền Tây nên nhà thơ đã viết về cuộc sống gian khổ của người lính miền Tây một cách rất cảm động. Sự khắc nghiệt, gian khổ và ác liệt của vùng biên cương, những gian khổ và ấn tượng khó quên mà những người lính hành quân năm xưa đã trải qua. Bản lĩnh của người lính Tây Tiến không giống như các nhà thơ khác, trong chốc lát anh nói lên sự thật về sự gian khổ, hy sinh của người lính. Tuy nhiên, hình ảnh những người lính miền Tây không hề trở nên ủy mị mà ngược lại, ngày càng đẹp hơn. Dùng bi để miêu tả tính cách của người lính là “khốn khổ”. Nói gian khổ đề cao thắng lợi, nói hy sinh nâng hình ảnh người lính lên tầm cao của thời đại, đó cũng là một cách vẽ “vẽ mây ngắm trăng”. Vì giá trị của chiến thắng là gì nếu nó có thể giành được dễ dàng mà không phải hy sinh? Hình ảnh người lính sẽ không đẹp nếu thiếu đi sự khắc nghiệt của sự khắc nghiệt của cuộc sống chiến đấu.

      Sóng biển vỗ vào rừng thông

      Khó khăn là món nợ anh hùng.

      Đó là một bài tổng kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng và giá trị của phẩm chất con người. Dù vất vả nhưng ấn tượng về niềm vui thì ít ỏi nhưng lại càng khó quên:

      Nhớ xới cơm cho bốc khói….

      Dòng nước lay hoa lay động.

      Như để lấy lại thăng bằng cho tâm hồn sau những gục ngã trước cuộc sống chiến đấu của lính Tây, Quang Bạo nhớ lại bao hình ảnh vui vẻ, ấm áp. Khói bếp quyện với mùi thơm của gạo nếp gợi lên sự ấm áp của một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Đủ ấm lòng khi chứng kiến ​​một thời gian khổ trong quân ngũ, đuốc hoa là một hình ảnh giàu sức gợi, cùng chung một niềm hân hoan khi chứng kiến ​​một ngày hội đông vui. .Hai tiếng đầy bất ngờ và vui sướng đã cắt nghĩa tâm hồn người lính miền Tây. Cả bài thơ, nhạc điệu hài hòa, tiếng tù và, hình ảnh vui sống) dường như vô thức chiến tranh. Hình tượng nhạc sĩ Hồn là một hình ảnh đẹp, thơ mộng diễn tả tâm hồn phong phú của người chiến sĩ ở miền tây. Sau bao thử thách nơi núi rừng hung dữ, họ đã có một ngày hội vui vẻ. Và dẫu biết sẽ phải tiếp tục chịu đựng gian khổ, hy sinh nhưng những người lính miền Tây vẫn múa hát, vui đùa, vẫn lạc quan, yêu đời. Có thể một vài người trong số họ sẽ chỉ còn ngủ trong núi rừng vào ngày hôm sau, nhưng tâm hồn họ hôm nay vẫn mơ màng, mơ về những hình ảnh đẹp của thơ và tranh, và xây dựng nên hồn thơ. Vì vậy, họ chuẩn bị tinh thần cho thử thách tiếp theo, nghĩ rằng đó là điều bình thường mà những người lính phải chấp nhận. Không gò bó, không gượng ép, mọi gian khổ, hy sinh của người lính là bình thường, tất yếu nên họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với tâm hồn trẻ trung, tươi mới. Cũng vậy, người lính hành quân về miền Tây vẫn nhớ hình dáng con xuồng, hay bông hoa trong nước lũ. Những hình ảnh hết sức bình thường ấy, tưởng chừng sau bao thử thách tinh thần, người lính sẽ quên. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh này đã ăn sâu vào tâm trí của những người lính phương Tây và là nguồn cảm hứng, động lực để họ chiến đấu dù không ngừng đón nhận thử thách mới:

      Đội quân không mọc tóc

      Đội quân xanh hùng mạnh

      Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

      Hà Nội Mạnh Nghiệp, hương sắc quân tử không mọc tóc! Từ nào khác có thể gợi lên rất nhiều cảm xúc! Như vậy, phải chăng hình ảnh người lính ở miền Tây sẽ xa lạ? Đừng! Đó chính là hình ảnh hào hùng của “người cận vệ hói” nổi tiếng một thời rụng tóc, cộng với việc đoàn quân không mọc tóc đã phần nào định hình nên hình tượng dũng sĩ với dáng vẻ oai hùng. Đoàn quân không có lông, đoàn quân lại có màu xanh, và màu xanh ấy có thể là màu của lá, của cành, nhưng chủ yếu là sốt rét rừng. Những người lính đã bị ấn tượng bởi cơn sốt khủng khiếp. Chúng ta xúc động trước hình ảnh những người lính Tây Phương, và chợt nhớ đến hình ảnh những người lính trong một số bài thơ đương thời:

      Nước da trở nên rất xấu,

      Chuyện này không còn mới trong những ngày này.

      Những người lính ở miền tây cũng phải chịu đựng những cơn sốt cao khủng khiếp đó, tuy nhiên, điều đó không làm nhụt ý chí của những người lính, trái lại họ đã chiến đấu dũng cảm hơn, ngoan cường hơn, đội quân áo xanh. Lá còn dữ dội. Sự hào hùng của những người lính Tây Phương được ghi lại qua những nét tương phản cân đối. Nếu như ở khổ thơ trên, người lính bị hổ uy hiếp thì họ cũng chiến đấu dũng mãnh như chúa sơn lâm. Câu sau lấn át câu trước, điệu đà như lính Tây. Một ẩn dụ như vậy diễn tả tinh thần chiến đấu anh dũng của những kẻ chiến thắng, Quảng Đông rất hiểu những kẻ chiến đấu và hòa thuận với họ. Chiến tranh không khốc liệt, nhưng những người lính từ phương Tây vẫn có một cuộc sống rất tế nhị ở Hà Nội:

      Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

      Một đêm Hà Nội đẹp như mơ.

      Những người lính bước ra từ mái trường, chiến đấu quyết liệt không quên hậu phương. Phía trước là cuộc chiến thể hiện cảm xúc qua mộng, thực, mộng. Tương Yên gợi lên vẻ đẹp của người con gái kinh thành, chữ “Tương” có nghĩa là “quốc sắc thiên hương”! Người lính của Quang Dũng ra đi với phong thái hào hoa của một thanh niên trí thức, một phong cách giúp người lính sống một đời sống tinh thần phong phú sau mỗi trận đánh dữ dội.

      Đời sống tinh thần ấy chính là nguồn động lực giúp các chiến sĩ tiếp tục đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thân yêu. Vì điều này, người lính đã chấp nhận hy sinh:

      Biên giới xa xôi

      Ra chiến trường không tiếc đời xanh.

      Cố gắng tách hai câu thơ thành một câu tại một thời điểm. Ồ! Ấn tượng bi tráng không ngờ của câu thơ đầu thật mạnh mẽ. Không hiểu sao mỗi lần đọc câu thơ này, tôi lại chìm trong suy nghĩ và rưng rưng nước mắt! Trên con đường dài hiểm trở giữa núi rừng, Tây quân không ngừng tiến lên, thỉnh thoảng có người phải rời đội hình. Những ngôi mộ liệt sĩ mọc lên như nấm. Bài thơ này thực sự bi thảm. Nhưng những câu thơ tiếp theo như một thang máy vô hình đưa lên câu thơ đầu tiên, và giờ đây thảm thê thảm. Sở dĩ nó bi thảm là do Quang Dũng đã thể hiện một nét cốt lõi trong tính cách của người lính: biết hy sinh, gian khổ vẫn phải chiến đấu để giải phóng quê hương. Họ ra đi không một lời than thở vì một cuộc đời xanh tươi, vì cuộc đời cao đẹp ấy đã hiến dâng cho một sự nghiệp cao cả: đấu tranh cho Tổ quốc. Đi và về an nhiên, không dính mắc, chết nhẹ tựa lông hồng:

      Áo thay đất

      <3

      quang dũng dùng chữ áo làm câu cổ kính, áo bào chứ không phải áo bào, đi lính như các danh tướng ngày xưa, là điều đáng trân trọng. Tương tự như vậy, những người lính coi việc hy sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người lính tây ngã xuống, nằm sóng soài trên mặt đất. Mảnh đất đã sinh ra anh đã chào đón anh trở về sau khi thực hiện nghĩa vụ của mình. Anh trở về đất liền trong một hành động anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh Mahe, cuối bài thơ vẫn là tiếng gầm của dòng sông. Dòng sông đưa anh đi đánh trận lại nhặt anh về:

      Hướng Tây

      Đường lên đỉnh thăm thẳm chia cắt

      Ai về miền Tây xuân ấy

      Linh hồn sẽ không trở lại.

      quang dũng một lần nữa khẳng định ý chí bất khuất ra đi không bao giờ trở lại. Đó cũng là ý chí kiên định của một thế hệ, một thời đại.

      Những gian khổ, hy sinh trong Kháng chiến là những kỷ niệm không thể nào quên. Sẽ không bao giờ có một thời gian khó khăn và anh hùng như vậy. Cũng khó có được một bài thơ thứ hai của phương Tây.

      Nguồn: pgd châu thanh

      Kiến thức bổ trợ

      – Vài nhận xét về thơ ca phương Tây:

      “Đọc Tây Thiên, tôi cảm thấy như có âm nhạc trong miệng”

      (Nhà thơ kỳ diệu của mùa xuân)

      “Nếu nói chính nghĩa viết về những người yêu nước hiện thực thì quang dũng tái hiện vẻ đẹp của người lính với đôi cánh lãng mạn, mang đến sự say sưa cho thơ ca, sự bay bổng của hình ảnh… Nếu không có chất lãng mạn thì ” “Tây” sẽ gần như mất đi vẻ đẹp hoàn hảo.”

      (nhà phê bình văn học nguyễn đăng điệp)

      “Quảng Đông độc lập như ốc đảo, nhất là với thơ Tây, ông không có gì chung với các nhà thơ khác, và giữa các nhà thơ kháng chiến, ông như một hòn đảo biệt lập”.

      (Đoàn thơ ca múa)

      “Nhà thơ Quảng Đông hồn nhiên vô song, sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước, nhưng ông đã trở nên độc nhất vô nhị. Tiểu tư sản và trí thức biết rằng họ đang chấp nhận một sự thật vĩ đại, nhưng đồng thời họ cũng đang mang một gánh nặng rất lớn.đau khổ”.

      (Nhà thơ Fan Long)

      -/-

      Thông qua phần mô tả chi tiết về văn bản đọc hiểu trên, hi vọng các em đã nắm được cách viết bài văn phân tích hay và đầy đủ nhất. Ngoài ra, chúng tôi còn tuyển chọn và cập nhật thường xuyên 12 bài văn mẫu đặc sắc để phục vụ cho việc học tập của các em học sinh. Chúc các bạn luôn chăm chỉ học tập và đạt điểm cao!

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button