Hỏi Đáp

HÓA HỌC: BÀI 2 NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Vật thể là gì triết học

Bài học 2

Những nguyên lý và quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng

  1. Chủ nghĩa duy vật khoa học
  2. Vật chất tồn tại như thế nào
    • Bản chất của thế giới

    Chủ nghĩa duy tâm tin rằng bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là cái trước, vật chất là cái sau và ý thức quyết định vật chất.

    Quan điểm duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự phản ánh một phần thế giới vật chất vào bộ não con người.

    Vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức và biểu hiện ở dạng cụ thể của nó. tại vì. Lê-nin đã định nghĩa: “Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ hiện thực khách quan, được con người ban cho các giác quan, được các giác quan của chúng ta tái tạo, chụp ảnh và phản ánh, tồn tại không phụ thuộc vào các giác quan”.

    là một phạm trù triết học, trong đó vật chất thể hiện sự tồn tại thông qua một hình thức cụ thể, nhưng không đánh đồng vật chất với hình thức tồn tại cụ thể của nó (vật thể mà chúng ta thường nói). Vật thể là những thứ hữu hạn sinh ra và chết đi để biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Và vật chất là vô hạn, vô tận.

    Những thuộc tính phổ biến nhất của vật chất là những thuộc tính của tồn tại khách quan, tức là những thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, không phụ thuộc vào cảm giác, kể cả khi con người nhận thức được. Vật chất không phải là một tồn tại trừu tượng, mà tồn tại thông qua những sự vật cụ thể, được các giác quan của con người ghi lại và tái tạo. Điều này chứng tỏ con người có thể nhận thức được thế giới.

    Ý nghĩa: Định nghĩa của Lê-nin về vật chất giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nghiên cứu sâu sắc thế giới đối với khoa học cụ thể, phát hiện ra nhiều dạng vật chất mới, tạo cho con người niềm tin để hiểu biết và cải tạo thế giới.

    • Chế độ Chất

    “Chuyển động là cách vật chất tồn tại, bao gồm tất cả các thay đổi và quá trình trong vũ trụ, từ chuyển vị đơn giản đến suy nghĩ”

    Chuyển động là một cách tồn tại của vật chất và nó là thuộc tính vốn có của vật chất. Thông qua chuyển động, vật chất mới biểu hiện ra dạng cụ thể của nó. Sự vận động của vật chất là vĩnh cửu.

    Nguồn gốc của chuyển động của vật chất là chính chuyển động, được xác định bởi mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, do tác động qua lại giữa các yếu tố trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật.

    Ph.Ăngghen đã chia chuyển động thành 5 dạng cơ bản: chuyển động cơ học, chuyển động vật lý, chuyển động hóa học, chuyển động sinh học và chuyển động xã hội.

    Chuyển động cơ học là sự dịch chuyển vị trí của một vật trong không gian.

    Chuyển động vật lý là chuyển động của các phân tử, electron, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt và điện …

    Động học hóa học là sự thay đổi của các chất vô cơ và hữu cơ trong quá trình tổng hợp hóa học và phân hủy các chất.

    Vận động sinh học là sự biến đổi của sinh vật theo môi trường, sự biến đổi cấu trúc di truyền, v.v.

    Sự vận động xã hội là những thay đổi của đời sống xã hội, các hình thái kinh tế xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

    Các hình thức di chuyển này khác nhau về chất. Các hình thức vận động không được bao hàm hoặc nhận dạng hoặc gán cho một hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Hình thức vận động có mối quan hệ tăng dần, vận động của hình thức cao được sinh ra từ sự vận động của hình thức thấp. Các dạng chuyển động có thể thay thế cho nhau và chúng luôn được bảo toàn. Vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất vì nó là sự vận động của quyền lực xã hội thông qua con người. Vận động xã hội bao gồm tất cả các hình thức vận động khác.

    Chuyển động là tuyệt đối và tĩnh là tương đối, đây là một trong những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chuyển động là tuyệt đối, vì chuyển động là cách vật chất tồn tại và là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở đâu, không có chuyển động ở bất cứ đâu.

    Đứng yên, cân bằng là một hiện tượng tương đối, một trạng thái đặc biệt của chuyển động – chuyển động là cân bằng, chuyển động không thay đổi về vật chất, vị trí, hình dạng, cấu tạo. Điều.

    • Đứng yên, thăng bằng chỉ xảy ra trong một dạng chuyển động, không phải tất cả. (Ví dụ, con tàu đứng yên là một dạng chuyển động cơ học, trong khi dạng chuyển động vật lý và cơ học tự nó vẫn xảy ra).
    • Sự tĩnh lặng chỉ là tương đối, tạm thời. Chỉ xem xét một hoặc một số mối quan hệ cụ thể tại một thời điểm nhất định, những quá trình biến đổi nhất định sẽ xảy ra ngay cả trong tình huống đứng yên. (Ví dụ, một con tàu đứng yên so với một cảng, và so với mặt trời, nó chuyển động theo chuyển động của trái đất).

    Không có sự tĩnh lặng tương đối, không có gì cụ thể, xác định và con người không thể nhận thức được bất cứ điều gì.

    • Không gian và thời gian

    Không gian là sự tồn tại của một dạng vật chất cụ thể. Nó là sự tồn tại tồn tại ở một vị trí nhất định, có độ nhất định (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) và có mối quan hệ nhất định với các đối tượng khác (trước, sau, phải hoặc phải), trái, lên hoặc xuống, v.v.

    Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là độ dài của quá trình tiến hóa và trình tự phát triển.

    Không gian và thời gian là dạng tồn tại của vật chất và là thuộc tính vốn có của vật chất, vì vậy nó có liên quan đến vật chất chuyển động. Vật chất chuyển động là chuyển động của không gian và thời gian. Bằng tiến sĩ. Engels nói: “Các dạng tồn tại cơ bản của vật chất là không gian và thời gian. Vật chất tồn tại ngoài thời gian cũng vô lý như tồn tại trong không gian”.

    Không gian và thời gian là thuộc tính cố hữu của vật chất và có liên quan đến vật chất chuyển động. Vật chất tồn tại khách quan nên không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.

    Vật chất là vô hạn và vô hạn, vì vậy không gian và thời gian gắn liền với vật chất cũng là vô hạn và vô hạn. Tính vô hạn của không gian được xác định bởi giới hạn của những thứ riêng lẻ. Tính vô hạn của thời gian được xác định bởi tính hữu hạn của mỗi quá trình.

    Không gian xã hội là hoạt động của đời sống con người trong một hệ thống xã hội. Thời gian xã hội là thước đo sự biến đổi của các quá trình xã hội. Nó được đặc trưng bởi sự mất cân bằng của hệ thống xã hội vì nó phụ thuộc vào tính chất tiến bộ hay lạc hậu của hệ thống xã hội.

    Ý nghĩa mà suy luận trên đưa ra cho chúng ta là muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì phải có quan điểm lịch sử cụ thể, xem xét nó trong một thời gian và không gian nhất định. Có nghĩa là, khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng hay một vấn đề nào đó, phải xem sự tồn tại và phát triển của nó ở một địa điểm và thời gian cụ thể, kết hợp với những điều kiện, môi trường khách quan của sự ra đời và tồn tại của nó. .Nếu không có quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta suy nghĩ, đánh giá sự vật, hiện tượng không chính xác.

    • Thống nhất Thế giới

    Ph.Ăngghen viết: “Tính thống nhất thực sự của thế giới là tính vật chất của nó”. 6 thể hiện sự thống nhất, rằng chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan. Ý thức, độc lập với ý thức. Thế giới vật chất là vô hạn. Trong thế giới đó chỉ có những quá trình vận động và biến đổi lẫn nhau. Chúng đều là vật chất và là nhân quả của nhau.

    Mỗi lĩnh vực của thế giới tự nhiên hoặc xã hội là một dạng vật chất cụ thể. Các hình thái vật chất tuy khác nhau nhưng đều có nguồn gốc và mối quan hệ cấu tạo và đều chịu sự chi phối của các quy luật khách quan của thế giới vật chất.

    Ý nghĩa: Tính thống nhất vật chất của thế giới không chỉ được biểu hiện trong tự nhiên mà còn trong xã hội. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi người đều phải xuất phát từ thực tế khách quan làm cơ sở, tiền đề và điều kiện hoạt động của chính mình. Trước khi đưa ra kết luận cần thiết về một sự vật, hiện tượng phải phân tích, xem xét từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện.

    1. Nguồn gốc và Bản chất của Ý thức
      • Nguồn gốc của Ý thức

      Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, được chuyển vào bộ óc con người và được cải tạo. Tuy xuất phát từ thế giới khách quan, cùng phản ánh đối tượng do tâm lý, mục đích, yêu cầu và điều kiện chủ quan của con người mà kết quả phản ánh có thể khác nhau.

      Nhận thức đến từ hai nguồn :

      • Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là có bộ não người và thế giới khách quan. Do sự phát triển và vận động lâu dài của tự nhiên đã xuất hiện loài người có bộ não phát triển cao, ý thức cũng ra đời từ đó. Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải thuộc mọi dạng vật chất mà chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao là bộ não con người. Mặt khác, phải có thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội) tồn tại bên ngoài con người, là đối tượng của ý thức. Không có thế giới khách quan thì ý thức không có gì để phản ánh. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự tác động qua lại giữa thế giới khách quan và bộ não con người.
      • Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ.
      • ul>

        Lao động làm thay đổi cấu trúc con người, phát triển các cơ quan, phát triển trí não, v.v.

        Là kết quả của lao động, bản chất, cấu tạo và quy luật vận động của tự nhiên tác động vào bộ não con người, dần dần hình thành tri thức và ý thức.

        Ngôn ngữ sinh ra là do lao động, vì trong lao động con người cần giao tiếp, liên kết và kết nối với nhau. Ngôn ngữ không chỉ là sự truyền đạt thông tin, tình cảm mà còn là công cụ để tư duy, thể hiện sự hiểu biết của con người và trở thành tín hiệu vật chất của ý thức.

        Trong hai nguồn ý thức trên, nguồn gốc xã hội có ý nghĩa quyết định sự hình thành ý thức. Nguồn gốc trực tiếp của ý thức là thực tiễn hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội và thực nghiệm khoa học.

        • Bản chất của Ý thức

        Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người. Điều này xuất phát từ đặc điểm của lý thuyết phản xạ và các kiểu phản xạ. Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất thông qua các mối quan hệ, liên hệ và tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng.

        Phản ánh các hình thái vô cơ với các tính chất cơ học, vật lý và hóa học là thụ động, đơn giản và không chọn lọc. Phản ánh hình thái động vật bằng hệ thần kinh thông qua hệ thống phản xạ. Phản xạ không điều kiện là phản ứng bản năng trước môi trường mang tính tự phát, không được rèn luyện. Phản xạ có điều kiện là phản xạ được hình thành qua rèn luyện. Sự phản ánh của dạng động vật cao cấp là sự phản ánh các yếu tố tâm lý như niềm vui, nỗi buồn và nỗi sợ hãi trong các mối quan hệ giữa các cá nhân. Tất cả các hình thức phản ánh trên tuy ở mức độ, mức độ khác nhau nhưng đều là hình thức phản ánh của vật chất.

        Sự phản ánh hiện thực khách quan của bộ não con người là sự phản ánh đặc biệt của ý thức. Nó cho thấy:

        Một là phản ánh quá trình theo trình tự trao đổi thông tin giữa chủ thể và khách thể, có tính chọn lọc và định hướng, mô hình hoá đối tượng tư duy, nhận thức đối tượng thông qua hoạt động thực tiễn.

        Hai là, phản ánh mang tính chủ động, năng động và sáng tạo, không sao chép mà là dự báo có chọn lọc mọi mặt của đời sống theo mục đích, yêu cầu lợi ích của con người. Các cạnh mới, thuộc tính mới. Sự phản ánh này bao hàm cả cảm giác và tư duy, cả trực tiếp và gián tiếp, hiện tại, quá khứ và tương lai, thể hiện cả sự cụ thể hóa và khái quát hóa.

        Ý thức có những đặc điểm phản ánh nêu trên, không chỉ có thể phản ánh chân thực, bản chất của sự vật, mà còn có khả năng vạch ra quy luật phát triển và khả năng dự đoán, dự đoán tương lai của hiện thực.

        • Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

        Triết học Mác cho rằng vật chất quyết định ý thức và ý thức ảnh hưởng đến vật chất. Ý thức dù năng động đến đâu, mạnh mẽ đến đâu thì cuối cùng vẫn do yếu tố vật chất quyết định.

        Chất quyết định ý thức: Chất là tiền đề, nền tảng, nguồn gốc của sự hình thành, tồn tại và phát triển ý thức. Điều kiện vật chất là như thế này, ý thức là như thế này. Khi cơ sở vật chất và điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng vậy. Chất quyết định ý thức là xác định nội dung, bản chất và xu hướng phát triển của ý thức. Cơ sở vật chất và điều kiện thực tế trong đó các công cụ và phương tiện được hình thành để kiểm tra nhận thức của con người về thế giới, đúng hay sai.

        Ý thức ảnh hưởng đến vật chất: Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, nhưng ý thức có ảnh hưởng lớn đến vật chất thông qua hoạt động thực tế của con người:

        Xem Thêm : Khối A01 Gồm Những Môn Nào? Ngành Nào? Trường Nào?

        Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào con người, giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, hình thành phương hướng, mục tiêu và phương pháp, cách tiếp cận thực tiễn. Chỉ ra phương hướng đó, mục tiêu đó.

        Nhận thức khiến mọi người hành động đúng hay sai, hiệu quả hay không.

        Nhờ nhận thức, mọi người biết cách chọn những khả năng phù hợp để di chuyển mọi thứ nhanh hơn.

        Ý thức và tinh thần chỉ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động thực tiễn trong một phạm vi hạn chế, trong một trạng thái, hoàn cảnh và thời điểm nhất định. Hơn nữa, yếu tố ý thức và tinh thần không thể vượt quá những điều kiện khách quan quy định và không thể thay thế những yếu tố vật chất khách quan. Chỉ là sự phát hiện và sử dụng hiệu quả các yếu tố vật chất.

        Ý nghĩa của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là ở chỗ nhận thức của con người phải luôn xuất phát từ thực tế và tôn trọng các quy luật khách quan. Mọi việc đều mang tính chủ quan, nóng vội và lý thuyết theo quan điểm của bản thân, dễ dẫn đến sai lầm và thất bại trong thực tế. Bài học kinh nghiệm của đảng ta là mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều phải dựa trên thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.

        Trong khi nuôi dưỡng và nâng cao yếu tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất cũng như đời sống văn hóa tinh thần. Đảng ta chủ trương “lấy phát triển kinh tế làm trung tâm” [1], “làm cho văn hóa gắn bó chặt chẽ và thấm nhuần trong toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc và là lực lượng nội sinh hàng đầu của sự phát triển”. “Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [3], không ngừng trau dồi, nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, khơi dậy sức sống và sức sáng tạo của con người Sự nhận thức, cải tạo, phát triển xã hội ý chí.

        • Những nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
        1. Nguyên tắc chung

        Một số nguyên lý chung của phép biện chứng duy vật của triết học Mác.

        • Nguyên tắc Quan hệ Toàn cầu

        Trên thế giới có rất nhiều sự vật, hiện tượng nhưng chúng là thể thống nhất với nhau nên luôn có mối quan hệ tương hỗ với nhau.

        Quan hệ là sự điều chỉnh, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng.

        Mối liên hệ phổ biến: Chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ tồn tại trong nhiều sự vật, hiện tượng.

        Các mối quan hệ này là khách quan vì chúng vốn có đối với các sự vật và hiện tượng; các mối quan hệ tồn tại độc lập với ý chí của con người.

        Các quan hệ mang tính phổ biến vì các yếu tố và bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng có liên quan với nhau; các quá trình vận động phát triển của thế giới cũng có quan hệ với nhau. Trong tự nhiên, xã hội và tư tưởng, các sự vật, hiện tượng cũng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau.

        Các mối quan hệ rất đa dạng và phong phú. Mối quan hệ bên trong là mối quan hệ giữa các phần tử hoặc các phần tử trong một đối tượng hoặc hệ thống. Có mối quan hệ bên ngoài, mối quan hệ giữa sự vật này với sự vật khác, mối quan hệ giữa hệ thống này với hệ thống khác. Có một mối liên hệ chung, nhưng một mối quan hệ riêng biệt. Có mối quan hệ trực tiếp, không thông qua trung gian và có mối quan hệ gián tiếp, thông qua trung gian. Có kết nối tự nhiên và kết nối thông thường, kết nối cơ bản và kết nối không thiết yếu …

        Ý nghĩa: Lý luận trên là cơ sở lý luận của quan điểm tổng hợp. Nghĩa là khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng phải xem xét các mặt và mối quan hệ bên trong, bên trong của chúng, phải biết thế nào là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu là hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng. Không nên bỏ qua một số mối quan hệ, nóng vội mà đánh giá mọi việc một cách chủ quan. Các mối quan hệ không nên được coi là bình đẳng. Không nên dựa vào một số mối quan hệ không thiết yếu, không chính yếu để tự biện minh một cách chủ quan bằng ngôn từ của mình.

        • Nguyên tắc phát triển

        Mọi sự vật và hiện tượng luôn vận động và phát triển. Phát triển là xu hướng chung của thế giới.

        Khả năng vận động và phát triển không đồng nghĩa với nhau. Sự chuyển động có thể xảy ra theo nhiều xu hướng khác nhau, chẳng hạn như xu hướng tăng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; có xu hướng tiến lùi; có xu hướng di chuyển theo vòng tròn khép kín.

        Phát triển là một xu hướng chuyển động, xu hướng mọi thứ đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn hảo đến hoàn hảo hơn. Sự vận động phát triển cũng có nghĩa là sự vận động đi xuống, ngược lại, nhưng xét về một khía cạnh nào đó, nó chỉ là xu hướng chung của sự vận động đi lên, là một giai đoạn nhất thời trong quá trình vận động phát triển của sự vật.

        Phát triển là xu thế chung của thế giới, được biểu hiện chung trên mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư tưởng. Trong tự nhiên, có sự phát triển của tự nhiên vô tri và hữu hình. Trong xã hội có sự phát triển của tiến trình lịch sử của xã hội loài người. Xã hội loài người thời đại sau sẽ luôn phát triển và tiên tiến hơn xã hội thời đại trước về kinh tế, chính trị, văn hóa …

        Tư duy phát triển thì con người ngày càng nhận thức rõ hơn về thế giới vô cùng nhỏ bé và rất rộng lớn này, có nhiều ngành khoa học mới ngày càng phức tạp và nhiều bí ẩn của thế giới đã được khám phá. Nhận thức của con người là có hạn, nhận thức của con người là vô hạn. Nhận thức của thế hệ sau luôn kế thừa và thể hiện cao hơn thế hệ trước. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức ngày nay đã chứng minh điều này.

        Sở dĩ có sự phát triển là do mối quan hệ và tác động qua lại giữa hai bên, các yếu tố bên trong của sự vật, hiện tượng, không phải sự áp đặt bên ngoài cũng như ý chí của chủ sở hữu. được xác định bởi thẩm quyền của con người. Người ta chỉ có thể nhận thức và thúc đẩy nó phát triển nhanh hay chậm.

        Ý nghĩa. Nguyên lý của sự phát triển đòi hỏi con người phải tư duy về các sự vật, hiện tượng theo hướng vận động và phát triển đi lên. Mọi người không được định kiến, bảo thủ trong hoạt động nhận thức, khi nghĩ về con người và phong trào quần chúng, không nên nhìn vào một phía, một việc, một lần. Thành công hay thất bại cũng cần có sự đánh giá khách quan, chín chắn, công tâm về mọi mặt, lạc quan về mọi mặt của vấn đề, tự tin tìm ra giải pháp và phát triển.

        Phải nhận thức được xu hướng tăng, nhưng phải có khả năng nhìn thấy bản chất quanh co và phức tạp của sự vật và hiện tượng khi chúng phát triển, phải nhìn thấy những thay đổi đi lên cũng như thay đổi ngược lại. Ngược lại, hãy chỉ ra những xu hướng chính sắp thay đổi.

        1. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
          • Tìm hiểu chung về các quy luật

          Quy luật tất nhiên là bản chất của mối quan hệ vốn có, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các mặt và các yếu tố của cùng một sự vật, hiện tượng, sự vật. Hiện tượng.

          Có nhiều quy luật khác nhau trong thế giới khách quan. Có những quy luật phổ biến và mang tính phổ biến tác động đến các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư tưởng. Có luật cụ thể và luật cụ thể chỉ ảnh hưởng đến một hoặc một số khía cạnh của một lĩnh vực. Mọi quy luật đều mang tính khách quan và là quy luật vốn có của thế giới vật chất.

          Các quy luật tự nhiên xảy ra một cách tự nhiên thông qua tác động của các lực lượng tự nhiên mà không có sự can thiệp của con người. Các quy luật xã hội được hình thành và chịu sự tác động của các hoạt động của con người.

          Quy luật xã hội có xu hướng tự biểu hiện thành một xu hướng hơn là trong mối quan hệ trực tiếp và được thiết lập với mọi công việc hoặc con người. Nếu các sự kiện trong đời sống xã hội xảy ra trong thời gian dài, không gian càng rộng thì tính lặp lại, lặp lại càng mạnh thì tính quy luật của nó càng rõ rệt. Ảnh hưởng của các quy luật xã hội phụ thuộc vào nhận thức và vận dụng của con người. Con người là chủ thể của xã hội và lịch sử. Không có con người, sẽ không có xã hội, và sẽ không có quy luật xã hội. Quy luật xã hội vừa là tiền đề vừa là kết quả hoạt động của con người.

          Tính khách quan vốn có của pháp luật được quyết định bởi các quan hệ nội tại vốn có của nó. Con người không thể tự ý chí chủ quan tạo ra hoặc xóa bỏ pháp luật, nhưng con người có thể chủ động phát hiện, nhận thức và vận dụng, tạo điều kiện thuận lợi, hạn chế tác hại của pháp luật vì lợi ích của mình.

          Khi mọi người không hiểu các quy tắc hoặc phớt lờ chúng, họ chắc chắn bị ràng buộc bởi luật và thất bại. Mọi người được tự do khi hiểu luật và chủ động tuân theo luật một cách tích cực và sáng tạo. Tự do không có nghĩa là hoạt động tùy tiện, bất chấp pháp luật, tự do là hiện thực hóa tính tất yếu.

          • Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (viết tắt là quy luật mâu thuẫn)

          Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó chỉ ra động lực của sự phát triển và là cốt lõi của phép biện chứng duy vật.

          Đối lập là một đối lập, tồn tại trong cùng một sự vật hoặc hiện tượng. Mọi sự kiện, hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt đối lập, những tính chất và khuynh hướng vận động, nhưng chúng là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của nhau. (Ví dụ, trong nguyên tử có electron và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong nhận thức có sự “đấu tranh” giữa nhu cầu biết và khả năng biết; có sự “đấu tranh” giữa kiến ​​thức đúng và hiểu biết .Hiểu sai, v.v.) .Mẫu thuẫn được hình thành từ các mặt đối lập, bao hàm sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

          Nội dung bất hợp pháp:

          • Mọi sự vật hay hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập. Nó là sự thống nhất giữa các mặt mâu thuẫn của vạn vật.
          • Các mặt đối lập của mọi thứ đều thống nhất và đấu tranh, ảnh hưởng và loại trừ lẫn nhau. Sự đấu tranh này dẫn đến sự chuyển hoá, thay đổi từng mặt đối lập hoặc cả hai mặt đối lập, tiến lên mức độ cao hơn, hoặc sự biến mất của hai mặt đối lập cũ và hình thành hai mặt đối lập mới. (Ví dụ: “không biết” đối lập với “biết” và sau đó “không biết” được chuyển đổi thành “biết”; cả hai khía cạnh có thể được chuyển đổi sang các dạng cao hơn, chẳng hạn như “không biết” và “biết ít” chuyển thành “biết ít” và “biết nhiều”)
          • Sự vật, hiện tượng mới ra đời. Các mặt đối lập thống nhất với nhau, tác động lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau và phủ định lẫn nhau. Quá trình trên xảy ra liên tục làm cho các sự vật, hiện tượng chuyển động không ngừng. (Ví dụ, chuyển từ nhận thức sự vật hiện tượng sang nhận thức dần dần về bản chất của sự vật, hiện tượng trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn, làm cho khả năng hành động của sự vật, hiện tượng phù hợp hơn và hiệu quả hơn). Mặt đối lập và đối lập là nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng.

          Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối. Mọi sự thống nhất đều là sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, phù du, gắn liền với sự tĩnh lặng tương đối của sự vật. Đứng yên là giây phút này. Các mặt đối lập là nhất quán, thống nhất và có giá trị ngang nhau. Đó là sự cân bằng giữa các mặt đối lập.

          Cuộc đấu tranh là tuyệt đối vì nó diễn ra từ đầu đến cuối trong sự tồn tại của các mặt đối lập. Trong thống nhất có đấu tranh. Đấu tranh liên quan đến vận động, nhưng vận động của vật chất là tuyệt đối, nên đấu tranh cũng là tuyệt đối.

          Bản thân các sự vật, hiện tượng có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa hai mặt bên trong của sự vật, bản thân nó là mâu thuẫn và có vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.

          Xung đột bên ngoài là xung đột giữa vật này và vật khác. Vạn vật tồn tại và không tách rời sự vật khác nên mâu thuẫn bên trong không tách rời mâu thuẫn bên ngoài. Xung đột bên ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, nhưng phải thông qua xung đột bên trong. Trong hiểu biết và thực tiễn, người ta không thể coi thường những mâu thuẫn bên ngoài, cũng không thể tuyệt đối hoá những mâu thuẫn bên trong.

          Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại trong quá trình tồn tại của sự vật, nó quyết định bản chất và sự phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không bản chất là mâu thuẫn không có vai trò quyết định bản chất của sự vật, phụ thuộc vào mâu thuẫn cơ bản. Bản chất của sự vật chỉ thay đổi khi những mâu thuẫn cơ bản được giải quyết. Muốn thay đổi bản chất của sự vật thì con người phải phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản và tìm cách giải quyết. Đây là cơ sở khách quan để xác định phương hướng, mục tiêu và sách lược đúng đắn của cách mạng.

          Mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản xuất hiện đầu tiên trong mỗi thời kỳ, tức là giai đoạn phát triển của sự vật và nó có ảnh hưởng quyết định đến các mâu thuẫn khác nhau lúc bấy giờ. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là giải quyết dần những mâu thuẫn cơ bản của sự vật.

          Mâu thuẫn thứ cấp là mâu thuẫn không có vai trò quyết định đặc điểm của sự vật trong một thời kỳ, thời kỳ nhất định.

          Xung đột đối kháng là xung đột không thể hòa giải giữa các lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Xung đột không đối nghịch là xung đột giữa người với người. Mâu thuẫn đối lập và không đối lập là mâu thuẫn đặc trưng của xã hội các giai cấp đối lập. Phân biệt, xác định xung đột đối đầu và không đối đầu là công việc quan trọng, là cơ sở để xác định đúng bạn và thù, đồng minh và đấu tranh; thông qua bạo lực cách mạng hay biện pháp hòa bình, thông qua tổ chức, giáo dục, thuyết phục để tìm ra giải pháp phù hợp.

          • Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng)

          Để hiểu luật, bạn phải hiểu: chất lượng, số lượng, mức độ, điểm nút, bước nhảy vọt.

          Mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập là chất và lượng. Chất của một sự vật là tổng thể các thuộc tính khách quan vốn có của nó để chỉ ra cái gì là dùng để phân biệt nó với cái khác. Số lượng của một sự vật chỉ cho biết số lượng của các thuộc tính cấu thành của nó, chẳng hạn như kích thước, kích thước, quy mô nhỏ, mức độ cao và thấp, tốc độ, v.v. Chất lượng là tính khách quan vốn có của sự vật.

          Sự vật, hiện tượng luôn là sự thống nhất của hai mặt đối lập là lượng và chất. Khối lượng của chất đó, khối lượng của khối lượng đó. Không có khối lượng nào tồn tại biệt lập. Sự khác biệt giữa chất lượng và số lượng là tương đối. Số lượng trong mối quan hệ này, chất lượng trong mối quan hệ khác. (Ví dụ, một lớp học được gọi là lớp tốt nếu có 25% học sinh giỏi. Vì vậy, con số trên là một chỉ số đánh giá chất lượng học tập của lớp đó. Điều đó cũng có nghĩa là bất kể số lượng cụ thể là bao nhiêu thì đó là số lượng. , nhưng số lượng cũng quyết định chất lượng của sự vật).

          Sự nhất quán giữa số lượng và chất lượng, thể hiện trong giới hạn nhất định gọi là độ. Mức độ là giới hạn của sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng. Đã có một sự thay đổi về lượng, nhưng không phải là sự thay đổi về chất; sự việc vẫn là một, không phải là khác. (Ví dụ, giả sử áp suất bình thường (atmotphe) của không khí, nhiệt độ tăng hoặc giảm (một lượng) từ 0 ° c đến 100 ° c, nước tinh khiết vẫn ở dạng lỏng. Vì vậy, giới hạn c từ 0 ° c đến 100 ° được gọi là độ, khi nhiệt độ tích lũy vượt quá giới hạn, dưới 0 ° C hoặc trên 100 ° C, nước trở nên rắn hoặc lỏng – chất cũ biến mất và chất mới thay thế chất cũ).

          Khi chất lượng thay đổi, mọi thứ sẽ thay đổi. Nhưng chất lượng là mặt tương đối ổn định, còn số lượng là mặt tương đối không ổn định. Thay đổi về độ và mọi thứ vẫn không thay đổi. Nhưng khi số lượng thay đổi vượt quá mức độ, nó nhất định gây ra một biến số.

          Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn này, chẳng hạn như 0 ° c và 100 ° c trong ví dụ dưới đây, được gọi là một nút. Ví dụ, khi nhiệt độ tăng hoặc giảm (lượng) từ 0 ° c đến 100 ° c, nước tinh khiết vẫn ở dạng lỏng. Nếu nhiệt độ của (lượng) nước giảm xuống dưới 0 ° C, nước lỏng trở nên rắn và duy trì nhiệt độ đó, (lượng) từ 100 ° C trở lên, nước tinh khiết chuyển dần sang trạng thái nhỏ.

          Khi vật chất thay đổi, điều gì đó thay đổi khi vật chất thay đổi được gọi là bước nhảy vọt. Các bước nhảy xảy ra tại các nút. Bước nhảy vọt là bước ngoặt giữa những thay đổi về lượng và chất. Cái cũ biến mất và cái mới được sinh ra.

          Quy luật chuyển hoá từ lượng thành chất và ngược lại phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất của sự vật. Chất lượng là bề mặt tương đối ổn định, số lượng là bề mặt thay đổi liên tục. Sự biến đổi phân hủy vật chất cũ, và vật chất mới được sinh ra với số lượng mới. Lượng mới sẽ tiếp tục thay đổi cho đến khi giới hạn nào đó phá vỡ chất cũ giữ lại lượng đó. Quá trình này không ngừng tạo ra một phương thức phát triển thống nhất giữa tính liên tục và không liên tục của sự vận động và phát triển của sự vật.

          Thế giới giàu có, vì vậy giàu có nhảy vọt. Các bước nhảy trong tự nhiên là tự phát, không thông qua hoạt động của con người. Khi delta đến một nút, một bước nhảy xảy ra. Trong xã hội, nhảy được thực hiện thông qua hoạt động của con người, do đó tùy theo điều kiện chuẩn bị chủ quan và khách quan, tình huống và thời cơ mà nhảy có thể nhanh hoặc chậm.

          Xem Thêm : Z là gì trong Toán học? Tìm hiểu các tập hợp số cơ bản khác

          Nắm vững các quy luật của phép biện chứng duy vật sẽ giúp con người hiểu và thực hành hoạt động thực tiễn, khắc phục khuynh hướng thiên tả. Việc gì không chú ý tích lũy số lượng, chủ quan nóng vội, chỉ thi hành duy ý chí sẽ dẫn đến thất bại. Mặt khác, cần khắc phục tư tưởng cánh hữu, ngại khó, ngại khổ, sợ không đủ điều kiện. Trong hoạt động thực tiễn, cần khắc phục khuynh hướng bảo thủ, hòa giải thiên tả. Mọi điều kiện khách quan và chủ quan phải được chuẩn bị tích cực. Bất cứ khi nào có tình huống, ngay khi có thời cơ, chúng ta sẽ kiên quyết tổ chức, cất cánh để giành thắng lợi quyết định.

          • Quy luật phủ định của Phủ định

          Quy luật này bao hàm những khuynh hướng cơ bản và phổ biến của mọi vận động và phát triển diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư tưởng. Thế giới vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển. Sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện, biến mất và được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế này được gọi là phủ định.

          Phủ định siêu hình là sự phủ định đẩy sự vật lùi lại, đi xuống và tan rã. Phủ định biện chứng là sự phủ định gắn liền với sự vận động phát triển.

          Phủ định biện chứng có những đặc điểm cơ bản:

          • Sự phủ nhận bản thân một cách tiêu cực do những mâu thuẫn cố hữu vốn có của sự vật.
          • Đó là sự phủ định của việc kế thừa những mặt tích cực của cái cũ và sửa đổi nó để phù hợp với cái mới. Đó là sự kế thừa có chọn lọc.
          • là sự phủ định của tính vô hạn. Cái mới phủ định cái cũ, nhưng cái mới không phải lúc nào cũng mới, nó sẽ bị phủ định bởi cái mới khác. Không có phủ định nào là phủ định cuối cùng.

          Sự phủ định biện chứng trong mối quan hệ với những điều kiện và tình huống cụ thể; mỗi sự vật đều có phương pháp phủ định riêng. Phủ định bản chất khác với phủ định xã hội, đồng thời cũng khác với phủ định tư tưởng.

          Phủ định biện chứng là quan trọng. Nó đòi hỏi phải tôn trọng tính khách quan, chống phủ định, trong sạch, kế thừa, không chọn lọc.

          Mọi chuyển động đều có tính chu kỳ. Những thứ khác nhau có chu kỳ và nhịp điệu chuyển động khác nhau, cả dài và ngắn. Tính chu kỳ của sự phát triển là: từ điểm xuất phát, sau nhiều lần phủ định, mọi thứ dường như trở lại điểm xuất phát trên cơ sở cao hơn. Số lần phủ định trên mỗi vòng lặp đối với một thứ cụ thể có thể khác nhau, nhưng về cơ bản chỉ có hai lần phủ định trái ngược nhau. Sự phủ định thứ nhất làm cho mọi thứ trở nên trái ngược với chính nó. Sự phủ định thứ hai tạo ra một cái gì đó mới, và thay vào đó, mọi thứ dường như trở lại như cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.

          Phép biện chứng duy vật chắc chắn là xu thế chung của thế giới, nhưng nó không tiến hành theo đường thẳng mà theo hình xoắn ốc phức tạp. Trong một số trường hợp, cái cũ là cái cũ, nhưng một số yếu tố vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới chưa đủ trưởng thành để đánh bại cái cũ ngay. Có lẽ lúc đó, cái mới đã có nơi phù hợp với quy luật phát triển, nhưng cái cũ còn đầy rẫy những khó khăn, cản trở sự phát triển.

          Lý luận trên gợi ý cho chúng ta rằng, khi xem xét sự phát triển và vận động của sự vật, chúng ta phải xem xét mối quan hệ giữa cái mới với cái cũ và cái tiến bộ từ cái lạc hậu. Cần bênh vực, ủng hộ người mới và tin rằng người mới nhất định sẽ chiến thắng. Khi gặp trở ngại, thất bại phải suy nghĩ thấu đáo, phân tích nguyên nhân, tìm cách khắc phục, có như vậy mới có niềm tin chiến thắng.

          • Nhận thức và Thực hành
          1. Suy luận về Nhận thức
            • Bản chất của Nhận thức

            Chủ nghĩa Mác – Lê-nin khẳng định bản chất của nhận thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo thế giới vào tư tưởng của con người.

            Con người có hai khía cạnh, tự nhiên và xã hội. Nhân văn là một khía cạnh của xã hội (?). Chủ thể của nhận thức là con người nên kết quả phản ánh thường chịu sự tác động của các điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội, truyền thống văn hóa; đặc điểm tâm sinh lý, nhất là năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể.

            Đối tượng nhận thức là hiện thực khách quan trong phạm vi hoạt động của con người. Những gì được vật chất hóa là thế giới vật chất hay thế giới tinh thần. Tri giác là sự phản ánh của chủ thể vào khách thể. Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới khách quan mà con người không thể biết được. Mọi người hoặc được biết đến hoặc chưa được biết đến. Điều chưa biết sẽ được biết trong thời gian tới. Nhận thức của con người về thế giới hiện thực là đúng và đáng tin cậy vì nó phản ánh hiện thực khách quan.

            Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, nhưng không phải là sự phản ánh thụ động mà là sự phản ánh chủ động, tích cực và sáng tạo; từ cái chưa biết đến cái đã biết, từ hư vô, từ nông đến sâu, từ hiện tượng đến bản chất.

            Nhận thức không chỉ phản ánh những gì đã và đang tồn tại mà còn phản ánh những gì sẽ xảy ra. Theo nghĩa này, tri giác có thể dự đoán tương lai. Ý thức không chỉ giải thích thế giới, nó thay đổi nó. Nhận thức và thực hành về bản chất có mối liên hệ với nhau.

            Giai đoạn Nhận thức

            Quá trình nhận thức của con người trải qua hai giai đoạn từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.

            + Trực quan Trực quan hay còn gọi là nhận thức cảm tính là khâu đầu tiên của quá trình nhận thức, phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan thông qua các giác quan thông qua các hình thức cơ bản, tiếp theo là: cảm giác, tri giác, biểu tượng.

            Cảm giác là hình thức phản ánh hiện thực đầu tiên, là kết quả của sự tác động của các đối tượng vào giác quan của con người. Nó chỉ phản ánh những khía cạnh và thuộc tính riêng lẻ của sự vật, chẳng hạn như: nóng, lạnh, màu sắc, mùi vị,… Cảm giác có vai trò to lớn đối với nhận thức và những thay đổi trong quá trình rèn luyện. Từ cảm giác, nhận thức cảm tính chuyển sang dạng nhận thức cao hơn.

            Tri giác là sự phản ánh cái chỉnh thể của sự vật, tổng hợp trực tiếp nhiều tính chất khác nhau của sự vật do cảm giác tạo ra. Bắt đầu từ tri giác, tri giác cảm tính tiến dần đến hình thức cao hơn là các biểu tượng.

            Biểu tượng là hình ảnh của những thứ được tái tạo trong tâm trí một cách tổng quát khi chúng không còn được nhận thức trực tiếp nữa. Nó chỉ giữ hình dạng chung của sự vật. Cũng giống như cảm giác và tri giác, biểu tượng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng biểu tượng lại phản ánh gián tiếp sự vật và có thể tạo ra một biểu tượng khác tương tự.

            Đặc điểm chung của khâu nhận thức cảm tính là phản ánh chân thực, trực tiếp, không qua khâu trung gian. Tuy phản ánh phong phú, sinh động nhưng cũng chỉ phản ánh bề ngoài, hiện tượng của sự vật.

            + Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là một giai đoạn nâng cao của quá trình nhận thức dựa trên tư liệu do trực quan sinh động cung cấp. Chỉ ở giai đoạn này, ý thức mới có thể nắm bắt được bản chất và quy luật của hiện thực. Tư duy trừu tượng được thể hiện dưới các hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy luận.

            • Khái niệm là hình thức tư duy trừu tượng, phản ánh tính phổ biến, bản chất và tính tất yếu của sự vật. Khái niệm được hình thành do hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Các khái niệm được thể hiện bằng ngôn ngữ và lời nói, là những chất liệu đầu tiên hình thành nên tri thức khoa học. Khi áp dụng phải linh hoạt.
            • Phán đoán là một dạng tư duy trừu tượng, dựa trên các liên tưởng, áp dụng các khái niệm hiện có để khẳng định hoặc phủ nhận một hoặc nhiều thuộc tính của sự vật. Mọi phán đoán đều được thể hiện bằng một “mệnh đề” nào đó.

            Phán đoán cũng hoạt động không ngừng, phát triển từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời gắn liền với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức, vì vậy nó là hình thức biểu hiện các quy luật khách quan của sự vật. Có nhiều loại phán đoán, chẳng hạn như phán đoán khẳng định, phán đoán tiêu cực, phán đoán duy nhất và phán đoán cụ thể.

            Suy luận là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Nếu các phán đoán dựa trên các liên tưởng khái niệm, thì suy luận dựa trên các phán đoán đã được thiết lập, và các mối quan hệ quy luật của các phán đoán đó, để đi đến các phán đoán mới. kết luận.

            Suy luận không chỉ cho chúng ta biết điều gì đã xảy ra mà còn cho biết điều gì sẽ xảy ra. Nếu phân tích thấu đáo, toàn diện, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì có thể dự đoán được tương lai của chúng.

            Trong giai đoạn nhận thức lý tính, tuy không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan nhưng nó phản ánh một cách trừu tượng, khái quát và vạch ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là một nhận thức đáng tin cậy, sát với thực tế khách quan và phục vụ cho mục đích nhận thức.

            Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức. Tuy có vị trí, mức độ và phạm vi phản ánh khác nhau nhưng chúng có quan hệ mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau. Mỗi giai đoạn đều có mặt tích cực và tiêu cực của nó. Ở giai đoạn nhận thức cảm tính, mặc dù nhận thức trực tiếp thế giới khách quan là có thật nhưng chỉ là nhận thức những hiện tượng bề ngoài, đơn giản, phiến diện. Nhận thức lý tính tuy không phản ánh trực tiếp sự vật, hiện tượng nhưng nó vạch ra bản chất bên trong và mối quan hệ tất yếu của nó, vạch ra quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

            Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức, xét cho cùng, chúng đều bắt nguồn từ thực tế, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng và nội dung phản ánh. Chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề và điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể làm được gì nếu không có tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp.

            Ngược lại, sau khi nhận thức lý tính được hình thành sẽ trở lại nhận thức cảm tính, đồng thời nó sẽ nhạy bén và chính xác hơn trong quá trình phản ánh hiện thực. Tư duy trừu tượng phản ánh gián tiếp hiện thực nên có nguy cơ phản ánh sai. Vì vậy, nhận thức của tư duy trừu tượng phải được trở lại thực tiễn để được kiểm nghiệm trong thực tiễn, từ đó phân biệt được nhận thức đúng và nhận thức sai.

            Vì vậy, từ trực giác sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở lại hiện thực là con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan. Trong số đó, thực tiễn vừa là một chu trình, vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc của một quá trình nhận thức. Kết thúc của vòng lặp này là bắt đầu của một đường khâu cao hơn. Đó là một quá trình nhận thức chân lý khách quan vô tận.

            1. Thực hành và vai trò của nó đối với nhận thức.

            Vai trò của thực tiễn

            Triết học Mác khẳng định, hiện thực là tất cả những hoạt động vật chất lịch sử – xã hội do con người thực hiện nhằm cải tạo thế giới khách quan. Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người tác động vào thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội) nhằm biến đổi nó theo nhu cầu và lợi ích của con người.

            Hoạt động thực tiễn rất phong phú nhưng có ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong số đó, hoạt động sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

            Thực hành là nền tảng, là nguồn gốc của nhận thức. Suy cho cùng, mọi nhận thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu thực tế, khách quan làm cơ sở cho nhận thức của con người. Trong thực tiễn, con người tác động trực tiếp vào thế giới khách quan, buộc các sự vật phải bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính và quy luật vận động, làm cho nhận thức của con người ngày càng cao.

            Thực hành là động lực và mục đích của nhận thức. Hiện thực không ngừng thay đổi và phát triển nên luôn đặt ra cho ý thức những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng mới. Hoạt động của con người, luôn có những mục tiêu, yêu cầu và tổ chức thực hiện không phải lúc nào cũng có sẵn trong đầu. Hoạt động thực tế sẽ thành công nếu đúng mục đích, yêu cầu và phương pháp thực hiện. Mục đích nhận thức của con người không chỉ là giải thích thế giới, mà còn là cải tạo thế giới theo nhu cầu và lợi ích của chính mình. Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức và lý luận.

            Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Hiện thực cao hơn ý thức vì nó vừa có tính hiện thực phong phú, vừa có tính phổ biến của khách quan, lịch sử và hoạt động vật chất xã hội. Thực tế lịch sử đã xảy ra một lần, nhưng nhiều người nhìn nhận và nhận thức khác nhau.

            Người ta không thể dùng tri giác để kiểm tra tri giác, cũng không thể dùng tri giác này làm tiêu chuẩn để kiểm tra tri giác khác, bởi vì dùng tri giác làm tiêu chuẩn để kiểm tra tri giác khác phải là tri giác đúng. Thực hành một mình là tiêu chí thực sự duy nhất của chân lý.

            Thực hành là tiêu chuẩn của chân lý, tuyệt đối hoặc tương đối. Tính tuyệt đối là tiêu chuẩn duy nhất mà thực tiễn là thước đo của chân lý, và không có tiêu chuẩn nào khác để đo lường chân lý. Tính tương đối của nó là hầu như không thể khẳng định đúng và bác bỏ ngay cái sai. Hơn nữa, bản thân thực tiễn cũng có tính biện chứng, thực tiễn ngày hôm qua khác với thực tiễn hôm nay. Việc luyện tập ở đây khác với việc luyện tập ở những nơi khác. Vì vậy, lý luận trên không cho phép người ta chuyển bất cứ tri thức nào thành chân lý bất di bất dịch mọi lúc, mọi nơi.

            Sự thật

            Chân lý là tri thức của con người phù hợp với thực tế khách quan, được kiểm nghiệm trong thực tế. Chân lý là kết quả nhận thức của con người về thế giới khách quan. Nhưng thế giới khách quan của các sự vật, hiện tượng luôn vận động và phát triển không ngừng, nên hiểu đúng nghĩa của Đạo phải là một quá trình chưa biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết ít đến biết sâu. màu sắc.

            Sự thật là khách quan. Chân lý là nhận thức của con người, nhưng nội dung của nó là hiện thực khách quan, không phụ thuộc vào con người. Tất nhiên, người theo chủ nghĩa duy vật phải thừa nhận rằng ông ta không thể để những suy nghĩ chủ quan của mình làm cơ sở cho lý luận của mình.

            Sự thật là cụ thể. Không có chân lý phổ quát trừu tượng áp dụng cho mọi tình huống, chỉ có chân lý cụ thể, rõ ràng liên quan đến điều kiện, hoàn cảnh, không gian và thời gian cụ thể. Trong những giới hạn nhất định, sự thật sẽ trở thành sai nếu bạn thoát khỏi thời gian và không gian, và ngược lại.

            Sự thật là tương đối và tuyệt đối. Chân lý tương đối là tri thức của con người phản ánh hiện thực khách quan, nhưng nó chưa đầy đủ, chưa hoàn chỉnh, chưa bao quát hết mọi khía cạnh của hiện thực khách quan, bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử.

            Chân lý tuyệt đối là hiểu biết của con người về thế giới khách quan, nhưng nó hoàn toàn đúng đắn, đầy đủ và chính xác về mọi mặt. Chân lý tuyệt đối là kiến ​​thức được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và xảy ra trong một khoảng thời gian vô hạn.

            Nhận thức đúng đắn về chân lý tuyệt đối phải thông qua chân lý tương đối vô hạn. Chân lý tương đối chỉ là một bước tiến tới chân lý tuyệt đối. Ranh giới giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối là tương đối.

            Ý nghĩa thực tế. Trên cơ sở lý luận trên, sau 25 năm thực tiễn và thực tiễn thực hiện chương trình 20 năm xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa đã chứng minh “đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với mục tiêu của cuộc cách mạng Việt Nam. Pháp luật và lựa chọn thực tế ”7. Đây là cơ sở để chúng tôi tin tưởng rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, là nền tảng để xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. quyết tâm thành công. /.

            [1] Giấy tờ của Quốc hội ..xi, số điện thoại. trg. 73.

            [2] Giấy tờ Quốc hội..xi, số điện thoại. trang 74.

            [3] Giấy tờ của Quốc hội..xi, số điện thoại. trg. 181

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button