Hỏi Đáp

Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa hay nhất (7 mẫu) – Download.vn

Phân tích khổ 2 bài thơ bếp lửa

Phân tích 7 bài đầu tiên về vụ cháy lớn thứ hai ở Việt Nam, với 2 bài tổng quan chi tiết. Nhằm giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn về tuổi thơ gian khó nhưng ấm áp tình bà của tác giả.

Đoạn thơ lửa thứ hai chạm đến cảm xúc người đọc bằng giọng điệu đau đớn, trăn trở, khiến người đọc cảm thấy vô cùng ngột ngạt và xúc động. Vậy hãy theo dõi bài viết dưới đây của download.vn để có thêm nhiều từ vựng nhé:

Phân tích dàn ý của phần thứ hai của Huoshi

Đề cương 1

1. Giới thiệu:

  • Giới thiệu Thi nhân Việt Nam và Thơ lửa
  • Khái quát nội dung chính của phần thứ hai.
  • 2. Văn bản:

    • Mùi khói lửa đã trở thành một phần quen thuộc của tuổi thơ “Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói”
    • Bên bếp lửa tôi cùng bà ăn bữa cơm nghèo, hương khói hun đúc tuổi thơ khốn khó nhưng ấm áp của tôi.
    • → Mùi khói bếp dầu mỡ thấm vào từng hơi thở máu thịt quê hương.

      – Cái đói, cái khó, nỗi nhớ khôn nguôi:

      • Nạn đói đeo bám làng “chết đói”.
      • Cha tôi ngày qua ngày phải vật lộn để nuôi gia đình và kiếm sống, cho đến khi cơ thể “gầy ngựa” của ông kiệt quệ.
      • Cái đói, cái nghèo triền miên ở quê hương in sâu trong tâm trí nhà thơ.
      • – Ôn lại những năm tháng hoài niệm là nỗi niềm nghẹn ngào trong lòng thi nhân “Sống mũi bây giờ còn nóng”

        – Trong tâm trí nhà thơ vẫn còn rất nhiều kỉ niệm đẹp, cả về tuổi thơ cay đắng của cảnh nghèo đói.

        3. Kết luận:

        • Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn.
        • Đề cương 2

          I. Giới thiệu:

          • Giới thiệu tác giả Việt Nam và bài thơ bên bếp lửa
          • Lời nói đầu của Phần 2: Hồi ức bốn tuổi
          • Hai. Văn bản:

            – Giới thiệu: Hình ảnh bếp lửa gợi tình cảm về người bà đáng kính và kỉ niệm 4 năm tuổi thơ của tác giả

            – Phân tích:

            – Kí ức năm 4 tuổi là mùi khói bếp nhà ngoại

            Khi tôi 4 tuổi, tôi đã quen với mùi thuốc lá

            + Hương khói gợi nhiều cảm xúc

            – Người cha

            • Xe khô và ngựa gầy
            • Vất vả gian nan, muốn người nhà thoát nghèo mà vẫn “đói”
            • “Đói và Đói”: Đói triền miên

              =>Nạn đói năm 1945 hoành hành cướp đi bao sinh mạng

              =>Quá khứ có vẻ hơi buồn

              – “Giờ nghĩ lại sống mũi vẫn nóng ran”

              • Cảm giác thèm ăn đã ăn sâu vào đứa trẻ 4 tuổi
              • Tuổi thơ không màu hồng như nhiều người nghĩ
              • – Liên hệ mở rộng

                – Đánh giá nghệ thuật

                • Dùng thành ngữ “Đói rét”
                • Giọng thơ xót xa
                • Chi tiết đơn giản và ngôn ngữ đơn giản
                • Ba. Kết luận:

                  • tóm tắt nội dung của phần.
                  • Nhận xét, quan điểm, cảm xúc cá nhân
                  • Phân tích đoạn 2 bài thơ Lửa – Ví dụ 1

                    Tình cảm gia đình là một đề tài lớn trong thơ ca Việt Nam, với biết bao cây bút tài hoa, tác phẩm xuất sắc viết về gia đình – cội nguồn và đích đến của tình yêu thương trong cuộc đời mỗi người. Chúng ta đã từng rung động trước mối tình giữa Lưu Công Tử và em bé trong chiếc lược ngà, và mỗi người chúng ta đã từng rung động trước tấm lòng người mẹ trong Con cò trắng của Chế Lan Vi, có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ quên được hình ảnh của một người. Sớm hôm cụ hiến thân cho con cháu, cháy trong ngọn lửa tình bằng hữu Việt Nam. Đây là bài thơ viết về bà, về những kỉ niệm tuổi thơ khó khăn nhưng ấm áp bên bà, đặc biệt khổ thơ thứ hai tác giả đã tái hiện một cách xúc động những ngày tháng được sống bên bà:

                    Xem Thêm : Bài 1,2,3, 4 trang 116 SGK Hóa 9: Metan – Dethikiemtra.com

                    “Lên bốn tuổi đã quen mùi khói Năm đói kém cha đi đánh xe ngựa khô chỉ nhớ mùi khói Mắt còn cay khi tôi nghĩ về nó bây giờ!”

                    Sau này lớn lên, những tháng ngày sống với bà vẫn là những kỷ niệm thân thương, là “hành trang” ấm áp và quý giá nhất mà người cháu sẽ luôn mang theo bên mình.

                    “Khi tôi bốn tuổi, tôi đã quen với mùi thuốc lá”

                    Ký ức tuổi lên bốn vẫn còn đó, mùi khói bếp lửa gợi lại những ký ức tuổi thơ khó khăn, cũng như nỗi nhớ bơ vơ. Khói bếp hay mùi yêu thương mỗi ngày bên ngoại.

                    Những năm tháng ấy, bên bếp lửa, tôi và cháu ăn những bữa cơm đơn sơ, nghi ngút khói phảng phất trong ký ức tuổi thơ ấm áp nhưng éo le. Mùi khói chẳng hiểu sao đã trở nên quen thuộc, trở thành một phần không thể thiếu trong tuổi thơ tôi. Tuổi thơ của cháu trai tuy không trải đầy màu hồng nhưng được sống dưới sự chăm sóc của bà ngoại vẫn tràn đầy niềm vui.

                    “Năm ấy đói khát, cha xe khô, ngựa gầy”

                    Hiện thực trần trụi của tuổi thơ được tái hiện qua chất thơ tự sự tinh tế. Hai câu thơ vỏn vẹn 16 tiếng đã bộc lộ toàn bộ không khí đói khổ, khổ cực của người dân lúc bấy giờ. Trong nạn đói lớn, mọi người đều bần cùng, còn ngôi làng nhỏ của tác giả phải chịu đựng cảnh đói rét thê lương dưới sự tàn phá của lũ “giặc đói” và “giặc đói”. Để nuôi sống gia đình và mưu sinh, người cha ngày ngày vật lộn với “chú ngựa gầy” khô héo. Cái nghèo đói dai dẳng của quê hương đã khắc sâu trong tâm trí tác giả từ khi còn là một cậu bé “lên bốn”. Đọc những câu thơ chân chất ấy khiến ai cũng chạnh lòng, xót xa cho những thăng trầm ở làng quê, đồng cảm với những vất vả, cực nhọc của biết bao người lao động nghèo, cơ cực.

                    Nhớ lại quá khứ, nhà thơ cảm thấy ngột ngạt:

                    “Chỉ nhớ có khói bay vào mắt, giờ nghĩ lại sống mũi vẫn cay”

                    Kỷ niệm in đậm trong tâm trí khiến người cháu như cảm nhận được trọn vẹn mùi khói cay nồng quen thuộc, đến nỗi bây giờ nghĩ lại cảm xúc như muốn nổ tung: “Sống mũi còn nóng. ” Bao nhiêu kỷ niệm khi yêu cô, cả những cay đắng của cuộc sống khốn khổ, đói khát vẫn còn sống động.

                    Sự kết hợp giữa miêu tả và trữ tình, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị mà ý nghĩa, chỉ năm câu ngắn gọn đã lay động trái tim người đọc. Mùi khói bếp, bàn tay gầy guộc nhen nhóm trong tôi biết bao cảm giác ấm áp, nhân hậu, tốt lành. Đọc khổ thơ nói chung, đọc khổ thơ nói chung, ta càng thêm yêu mến, biết ơn quê hương, có chút nghẹn ngào, tự hào về người bà đã suốt đời nuôi cháu:

                    “Mắt càng già càng đằm thắm. Tuy da khô nhưng mẹ không hẹp hòi và đầy kiên nhẫn. Mẹ vẫn mãi hy vọng. Chỉ vài câu nói mà mỗi ngày thêm rắn rỏi” “

                    Phân tích đoạn 2 bài thơ bếp lửa – văn mẫu 2

                    Trong đời ai cũng có cho mình những kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những gì thiêng liêng, thân thiết nhất, có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người trên suốt chặng đường dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có một kỷ niệm đặc biệt, đó là những năm tháng được sống bên chị, cùng chị thắp lên ngọn lửa thân thương. Không chỉ vậy, tình cảm của hai đứa cháu trai còn in sâu trong tâm trí Yuedu. Ta có thể cảm nhận được điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

                    Bài thơ gợi cho em những kỉ niệm cảm động về tình mẹ qua những kỉ niệm, tình cảm của người cháu xa xứ, đồng thời bày tỏ lòng kính trọng, biết ơn của em đối với bà, gia đình và quê hương.

                    Hình ảnh bếp lửa dường như gợi lên cả một bức tranh tuổi thơ đầy gian khó, vất vả của tác giả bên bà ngoại. Có thể nói, “bếp lửa” đã thắp lên tình cảm cho cô, và ký ức vẫn còn tươi nguyên:

                    Khi tôi bốn tuổi, tôi đã quen với mùi thuốc lá. Năm ấy là năm đói khát, cha tôi đánh xe lương khô, cưỡi con ngựa gầy.

                    “Đói rét” là thành ngữ chỉ cái đói kéo dài khiến con người kiệt sức. Những vần thơ ấy như một thước phim tái hiện lại những nhọc nhằn, thiếu thốn, gian khổ của tuổi thơ tôi và bóng đen khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Bao kỉ niệm ùa về, lay động lòng người:

                    “Nghĩ lại chỉ nhớ khói bay vào mắt, sống mũi còn nóng!”

                    Mùi bếp cay nồng hình như còn chưa tan, mới hôm qua thôi. Nó nhấn mạnh việc đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ. Khi đọc thơ, chúng ta cũng có cảm giác ngứa ran nơi chóp mũi. Từ sương khói tuổi thơ, “Bếp lửa” thổi bùng lên ký ức tuổi thanh xuân chưa được giải tỏa trong cuộc chiến tranh vệ quốc.

                    Là mùi khói xua đi mùi chết chóc từ mọi ngóc ngách. Cũng chính mùi khói đó hòa quyện và gắn bó với tâm hồn đứa trẻ. Dù cho thời gian có trôi đi, những ký ức đó cũng sẽ để lại trong lòng cháu nội một ít ấn tượng, nhìn lại sống mũi vẫn nóng hổi. Mùi khói làm cay mắt cháu, hay lòng người bà đã làm cháu khóc?

                    Phân tích đoạn 2 bài thơ bếp lửa – mẫu 3

                    Gia đình là chiếc nôi êm, là tổ ấm, là điểm tựa vững chắc cho mỗi người. Vì lẽ đó, tình cảm gia đình luôn quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Cũng như bao nhà thơ khác, Bằng Việt đã mạnh dạn bày tỏ tình cảm chân thành của mình đối với người bà đáng kính qua bài thơ “Bếp lửa”. Là một bài thơ rất hay và xúc động về tình ông bà và những năm tháng tôi sống với bà nhưng khổ thơ thứ hai lại diễn tả những kỉ niệm tuổi thơ năm lên bốn. Đọc thơ của chúng tôi là được sưởi ấm bởi ngọn lửa ấm áp của một người đàn ông giàu có, duyên dáng, xinh đẹp.

                    <3

                    Bài thơ “Lò sưởi” được bà viết năm 1963 khi đang học luật ở nước ngoài. Bài thơ này là lời thủ thỉ dịu dàng của người cháu phương xa với chính mình, đồng thời cũng là nỗi niềm mong mỏi của những người thân ở quê nhà. Chiều sâu của nỗi nhớ nằm trong dòng ký ức tuổi thơ, trong tuổi thơ bất hạnh và rực rỡ năm lên bốn:

                    “Khi tôi bốn tuổi, tôi đã quen với mùi thuốc lá”

                    Ký ức tuổi lên bốn hiện về trong thước phim đầy khói. Đó là dấu ấn cuộc đời của hai bà cháu những năm tháng ấy. Cũng có những cảm xúc khi bộc lộ trong làn khói mờ ảo, có khi mờ ảo, có khi dịu dàng, có khi u sầu. Tuổi thơ ấy không nhuộm đầy màu hồng mà là một ngày lẩn quẩn trong cái đói :

                    “Bố đạp xe khô và con ngựa gầy”

                    Xem Thêm : Chữ Ký Đẹp

                    Hình ảnh người cha trụ cột gia đình hiện lên: chú ngựa thồ. Bố đã cố gắng hết sức để lo cho gia đình, nhưng dù bố có cố gắng hết sức cũng không đủ để lo cho cả gia đình. Bài thơ như dẫn ta về nạn đói năm 1945. Nạn đói triền miên đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm người. Trong tuổi thơ ấy, nhà thơ đã phải chứng kiến ​​một cảnh tượng đầy éo le, đau thương. Đến đây, giọng thơ và hình ảnh như chìm xuống, khiến người ta có cảm giác buồn nôn. Chỉ đọc thơ cũng có thể khiến người ta ngạt thở, có thể khiến người ta khóc. Tất cả những điều này thật đau đớn, đầy thăng trầm của tuổi thơ chứ không hào hứng, thú vị như mọi người tưởng tượng. Phải chăng nỗi nhớ và nỗi nhớ sâu đậm đến thế mà tôi vẫn cảm thấy ngạt thở khi nghĩ đến chính nhà thơ:

                    “Giờ nghĩ lại vẫn thấy sống mũi nóng ran”

                    Ngôn ngữ thơ giản dị, không khoa trương gây xúc động và khắc sâu vào lòng người trong một thời gian khó, gian khổ. Mùi khói của bà thắp lửa gợi lại những năm tháng khó quên trong lòng bà cháu. Nơi đây gian khổ nhưng chan chứa yêu thương của cô :

                    “Mắt càng già càng đằm thắm. Tuy da khô nhưng mẹ không hẹp hòi và đầy kiên nhẫn. Mẹ vẫn mãi hy vọng. Chỉ vài câu nói mà mỗi ngày thêm rắn rỏi” “

                    Tác giả kể lại kỉ niệm lần thứ tư của mình bằng giọng thơ chân thành, trìu mến, trầm lắng và những hình ảnh khó quên. Đọc thơ, có chút nghẹn ngào xen lẫn đau xót.

                    Phân tích đoạn 2 bài thơ bếp lửa – mẫu 4

                    Bằng Việt Nam thuộc thế hệ những cây bút trẻ được rèn giũa và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Việt trong sáng, lưu loát, giàu cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác ký ức, ký ức tuổi thơ, khơi gợi ước mơ tuổi trẻ.

                    Thành tựu nổi bật đầu tiên của Văn hiến Việt Nam là bài thơ Về bếp lửa (1963). Đây là bài thơ nói về tình cảm ông bà, gia đình và quê hương. Tuổi thơ gian khó, vất vả bên ngoại đã theo tôi đến khi trưởng thành, nhưng những hình ảnh đẹp và sự dịu dàng của bà không ngăn được những kỉ niệm ùa về trong lòng tôi :

                    Xem Thêm : Bài 1,2,3, 4 trang 116 SGK Hóa 9: Metan – Dethikiemtra.com

                    “Lên bốn tuổi đã quen mùi khói Năm đói kém cha đi đánh xe ngựa khô chỉ nhớ mùi khói Mắt còn cay khi tôi nghĩ về nó bây giờ!”

                    Dường như những vất vả của tuổi thơ đã ăn sâu và trở thành nỗi ám ảnh trong lòng tác giả. Nghĩ đến những ngày còn thơ ấu bên ngoại, mùi khói cay nồng còn đọng lại trên sống mũi. Mùi khói bếp ấy, cái mùi khói quen thuộc tôi đã ngửi từ hồi bốn tuổi, đã từng làm tôi ngạt thở, khói cay nồng, củi cháy ướt, nhiều sương và lạnh..

                    Mùi khói không chỉ đến từ ánh lửa bập bùng trong gian bếp của mẹ mà còn đến từ mùi bom đạn, chiến tranh, nỗi đau, sự nhọc nhằn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc sống. Đặc biệt là hai cháu và nhân dân Việt Nam trong những năm khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp.

                    Tuổi thơ ấy cay đắng lắm, cay đắng lắm. Tuổi thơ ấy bị phủ bóng bởi nạn đói lớn năm 1945, và cụm từ “đói lạnh” là sự miêu tả đầy xúc động về những đau khổ mà con người và cuộc sống phải gánh chịu trong thời kỳ đó. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ miêu tả tình cảnh của nhân dân ta ngày ấy:

                    “Con đói, ôm lưng mẹ mà khóc, mẹ chờ con ăn mà nín thở, con biết đi đâu.

                    Nỗi đau khổ đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa qua những chi tiết miêu tả:

                    “Bố lái ngựa gầy”

                    Văn miêu tả, miêu tả đan xen, lay động lòng người. Bài thơ không chỉ miêu tả biểu hiện khiếp sợ của “giặc đói” mà còn miêu tả nguyên nhân khiến người cháu phải ở với bà. Cái đói và cái nghèo lan khắp làng, khiến người cha phải lái xe quanh thành phố với người đàn ông tiều tụy vì không đủ ăn, để lại đứa con nhỏ cho một người phụ nữ yêu thương và chăm sóc.

                    Cảm nhận những gian khổ, đói khát của tuổi thơ mà ký ức vẫn còn tươi nguyên, tác giả sẽ không bao giờ quên:

                    “Giờ nghĩ lại vẫn thấy sống mũi nóng ran!”

                    Đó là cái cay đắng, cái đói cái rét đau đời ấy, ăn sâu vào xương tủy, mạch máu, để đến bây giờ, hơn mười năm trôi qua, khi nhìn lại, cảm giác “cay” vẫn còn nguyên vẹn . mũi. Nỗi cay đắng nơi sống mũi cứ thế lan tỏa, lan tỏa trong sâu thẳm tâm hồn đứa cháu. Dường như có một cảm giác chua xót, ngột ngạt và yêu thương.

                    Thơ giản dị, đậm chất văn xuôi. Người đọc như được đắm chìm trong câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là bà tiên luôn gắn bó, chăm sóc, nâng niu về thể xác và tinh thần cho các cháu. Tình yêu thương, trái tim nhân hậu của bà như xua tan bao đau thương của chiến tranh. Khổ thơ này trở thành một trong những khổ thơ xúc động nhất trong cả bài thơ.

                    Phân tích đoạn 2 bài thơ bếp lửa – mẫu 5

                    Hình ảnh người bà thầm lặng hàng ngày thắp lửa sưởi ấm trái tim đứa cháu thân yêu!

                    Bà xuất hiện trong hình ảnh của một người bà cố chắt chiu, chắt chiu từng hơi ấm trong lúc đất nước đói kém, loạn lạc. Bà vẫn lặng thinh, hốc mắt lem luốc sương khói, nhưng bà đã trao tấm lòng xa xưa của mình để nuôi cháu, hay mầm non tương lai của đất nước, và đặt hy vọng cho sự phát triển của đất nước. Trong khổ thơ sau, người bà hiện lên qua lời kể của người cháu về những kỉ niệm thời thơ ấu của mình. Cô như người mẹ hiền, hàng ngày nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ các cháu. Có lẽ dưới sự chăm sóc, yêu thương, đùm bọc của ngoại, nỗi nhớ nhung, thiếu thốn tình thương của cha mẹ khi xa quê đã vơi đi phần nào. Chị cũng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, dũng cảm, mạnh mẽ, hy sinh tình riêng để vượt lên tình chung. Khi tôi nói với các cháu rằng bố gọi tôi, đừng nói với tôi điều này điều kia, chỉ nói rằng ở nhà bình tĩnh.

                    Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu đau thương, bao nhiêu nghèo khó, chị đều dồn vào tận đáy lòng, để cùng tiền tuyến xây dựng hậu phương vững chắc. Cô mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hy sinh mọi khổ đau vì yêu, đặt tình yêu thương cộng đồng lên hàng đầu, đó chưa phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước, yêu đấu tranh, yêu lẽ sống. mạng? Bằng cấp Việt Nam như thổi được sức mạnh của lòng yêu nước, lòng dũng cảm và đức hi sinh cao cả trong lòng người đọc qua hình ảnh người bà. Càng về cuối, cảm xúc dâng trào càng mạnh mẽ, khiến hình ảnh người bà hiện lên chân thực, sống động hơn bao giờ hết, trở thành điểm nhấn của cả bài thơ với sức lay động và chất lượng tuyệt vời. Cô là người thắp lên ngọn lửa, giữ cho nó tồn tại và cháy mãi. Chính nàng đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của hiện thực, nhưng trên hết, nàng cũng nhóm lên ngọn lửa yêu thương, sưởi ấm cho anh trong sự yếu đuối, nấu khoai sắn cho anh, cho anh no bụng, cùng anh đoàn kết. tình quê.

                    Vì vậy, trái tim cô là ngọn lửa của niềm tin, là chiến thắng của tình yêu, chiến thắng của ký ức tuổi thơ, là gánh nặng nâng đỡ em hướng tới tương lai dài. Và rồi, dù em đi xa, trăm chuyến tàu bốc khói, trăm nhà bật điện, anh vẫn nhắc em “Mai em mở bếp nhé?”.

                    Đoạn 2 Thơ Tình

                    Đoạn 1

                    Phần hai là những hồi ức của tác giả về những năm tháng chung sống với bà. Bài thơ giản dị như lời kể, câu văn như văn xuôi, cảm xúc như lời thủ thỉ, tác giả như đang kể cho người đọc nghe những câu chuyện cổ tích tuổi thơ của mình. Nếu như trong truyện cổ tích của các nước khác có bà tiên và phép màu thì trong truyện của bang việt lại có bà và bếp lửa. Trong những năm tháng nghèo khó, người bà đã đeo bám tác giả, chính bà là người xua tan không khí khủng khiếp của nạn đói năm 1945 trong lòng những đứa cháu. Tôi luôn được bà che chở, dù tôi có đói cũng không để tôi lỡ bữa, bà sẽ hái từng củ khoai, đào từng củ sắn cho tôi có cái để ăn, để tôi sẽ không đói:

                    Mới bốn tuổi đã quen mùi khói, năm ấy là năm đói khát. Khói mù mịt, mắt đã lóa, nhìn lại sống mũi vẫn nóng hổi

                    Đoạn 2

                    Bài thơ “Lò sưởi” là bài thơ viết về bà của em do một văn bằng Việt viết, diễn tả những năm tháng tuổi thơ gian khó nhưng ấm áp bên bà. Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ tái hiện lại quãng thời gian thơ ấu bên bà. Bài thơ này đưa người đọc trở về tuổi thơ của tác giả, khi tác giả còn là một cậu bé bốn tuổi. Đó là một tuổi thơ đầy gian khổ và khó khăn. Tác giả sống với bà ngoại từ nhỏ, mùi khói bếp cay nồng đã trở thành một phần tuổi thơ của bà, “Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói”. Suốt những năm tháng tuổi thơ ấy, người cháu đã cùng bà sống và cùng bà trải qua những tháng ngày “đói ăn, đói rét”. Nghĩ đến tuổi thơ gian khó ấy, cảm xúc của người cháu bỗng trào dâng: “Nghĩ đến sống mũi vẫn thấy cay cay. Mùi khói thuốc súng của bếp lửa, những gian khổ của tuổi thơ như hòa quyện vào tâm hồn tôi, và cả khi đã trưởng thành, tôi cũng không bao giờ quên được. Vì, chỉ nhớ rằng, cuộc sống của cô ấy đầy vất vả, và sự cực nhọc của cô ấy đang dằn vặt trong tâm hồn cô ấy. Điệp ngữ “đói, đói, khát” trong khổ thơ và hình ảnh hiện thực “con ngựa gầy” làm cho cái đói trở nên rõ ràng, chân thực. Ngôn ngữ thơ giản dị, không màu mè, giọng điệu thiết tha, háo hức, đưa từng dòng đi vào cảm xúc của người đọc, ký ức về Zhuyue Wendu sâu lắng, sống động đến mức người đọc cũng cảm thấy chua xót, cay cay, nghẹn ngào.

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button