Hỏi Đáp

Thiện – SimonHoaDalat

Thiện là gì

lòng tốt

Về “thiện bản thiện” (con người bản chất là thiện) hay “tiểu nhân bản tính ác /i>” (con người sinh ra bản chất là ác), ai đó hỏi tôi “tốt” là gì.

Đây là một chủ đề phong phú đến mức người ta khẳng định rằng “không thể định nghĩa được vì nó là khái niệm cơ bản nhất, cuối cùng và không thể chia cắt” [1]. Vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi cố gắng tìm hiểu nghĩa thông thường của từ “tốt” trong tiếng Việt, cũng như một số khái niệm liên quan đến chủ đề này trong triết học và tôn giáo dân gian[2].

1. Ý nghĩa của từ “tốt”

1.1. Nghĩa gốc hay. thiên có 15 chữ Hán: 善(譱), 善, 鱓, lươn, Zen, , Shan, 饭, 饭, 墠, 阵, 书(传), Song, 蟮, 蟺, trong trường hợp này là 善 (chữ Hán phồn thể). : 譱). tian thuộc từ loại, là từ kết hợp giữa cừu và cừu và từ. Dương (cừu) tượng trưng cho tường (xiang) là điềm lành (tốt lành); khẩu (speech) là lời nói. Từ này được đánh vần như sau:

Trong văn bia bằng xương tiên tri, chữ tiên được viết là bộ (dương 羊, nghĩa là cát tường: điềm lành) và chữ (mục, tức là mắt, nghĩa là khuôn mặt ôn hòa, dịu dàng và tinh anh) ), như câu nói: “từ mi: mặt hiền”. Trong kim văn, tian được viết là (dương dương, tức là Qiangxiang: có nghĩa là hòa bình và nhân ái); cũng được viết: gồm có dương (羊) và hai chữ (言), có nghĩa là lời tử tế. Nghĩa gốc của từ thiện là “tinh thần ôn hòa, ngôn ngữ thân thiện: diện mạo trang nghiêm, lời nói hòa nhã”. Trong kinh điển, kế thừa hình thức của Jin Fan, kịch bản được viết là hoặc. Trong thư viết tắt chữ (言) là tiên lược bỏ một chữ (言) mà thành.

1.2. Thiện: (đt.) (1) Thiện nghiệp: mỗi ngày tu thiện (mỗi ngày làm một việc thiện). (2) người tốt, người rất,: người tốt không có khả năng (khen người tốt, nhưng cũng để thông cảm cho người không có khả năng). (3) Họ tốt. (et.) (4) Kính: Thiện làm vua, hiền làm vua (biết thời làm vua, biết thời làm vua) (hữu con trai có sức mạnh rất lớn). (5) Kết bạn: communicate (kết bạn). (6) sửa điều hay: tu điều thiện (làm điều tốt) (7) yêu thích: vua thích điều lành, không làm điều xấu? (nếu vua thích nó , tại sao không làm nó?) (Mạnh Tử Vương của Liang). (8) thân thiện, thân thiện: hàng xóm thân thiện (gần gũi với hàng xóm, tử tế với hàng xóm). (tiếp) (9) người quen: gương mặt thân quen (với khuôn mặt quen thuộc). (10) thiện: người tốt (người tốt). (11) Chấp nhận được: good book (kế hoạch tốt). (pht.) (12) Khéo léo: thư hay (văn khéo léo). (13) Dễ quên: Tốt (dễ quên). (14) Thân: vui lòng (tử tế). (Thán từ) (14) Ca ngợi: lòng tốt!

Theo nghĩa triết học, cái thiện là “điều tốt đẹp thuộc lĩnh vực đạo đức, là lý tưởng đáp ứng ý chí, lý trí và cái đẹp, tình cảm của con người”[3].

2. Khái niệm về cái tốt

2.1. Trong Nho giáo: Mạnh Tử nói: “Mọi người đều có lòng từ bi… Sở dĩ tôi nói điều này là vì có bằng chứng rõ ràng. Chợt thấy đứa trẻ rơi xuống giếng, ai cũng có lòng bất an, cuộc đời đáng tiếc” [4]. Đó là bằng chứng của một trong bốn yếu tố thiện (sitong, hay gọi nôm na là phôi tốt), nếu ai không có thì không phải là người, gồm: lòng thương xót (thương xót), lòng hổ thẹn (xấu hổ), lòng căm ghét. , Buồn (tôn trọng), vi phạm (đúng sai). Ông nói: “Từ bi là sơ lược của nhân, nhục là sơ lược của nghĩa, từ bi là sơ lược của lễ, bất tuân là sơ lược của trí tuệ”. Vì vậy, con người cần phát huy bốn mối quan hệ này bằng cách tu tâm (sống, tu tánh), giảm dục vọng (tạo dục vọng), làm việc thiện.

Người ta thường quan niệm bản chất là tất cả những tính chất tốt xấu tự nhiên trong tâm thức của một sự vật, tức là toàn bộ đời sống của sự vật đó. Nho gia không hiểu, bởi vì nó là gốc của tinh thần, tức là bản chất của con người, chính, lễ, trí, và nó cũng là trí và đức được đề cập ở đầu sách đại học. Vì vậy, nếu cho rằng bản chất của mình là tốt, nếu thành công của mình là không tốt, tức là không biết giữ cái tâm ban đầu của mình, và nguồn gốc của sự thất bại là không tốt. Sở dĩ kẻ mạnh nói về thiện là vì ông ta tin rằng có thiện, bản chất con người là một phần của nó, nên nó phải có thiện.

Mạnh Tử thường dùng “hiếu, trung, trung” để biểu đạt nội dung cụ thể của tính thiện. Hiếu thảo là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa con cái với cha mẹ; biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa tôi và bạn; lòng trung thành là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa tôi và đất nước hoặc chủ nhân; lòng tin là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa tôi và bạn bè của tôi. Lòng tốt là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa mình và người.

2.2.Trong Phật giáo: Thiện (Pali: kusala): thiện, thiện, thiện; có đạo đức, có lợi cho mình và người; là cõi diệt ác. Trái ngược với thiện là ác, và bất thiện (akusala) là ác. Quả của lòng từ là thân tâm an lạc. Hạnh phúc (puñña): Là trạng thái hạnh phúc, vui vẻ và thanh lọc tâm khỏi phiền não. Ngược lại với hạnh phúc là phó (pāpa), là một trạng thái trong đó tâm trí bị ô nhiễm bởi những phiền não. Hoa trái của hạnh phúc cũng là thân tâm an lạc. Do đó, hạnh phúc và lòng tốt là đồng nghĩa. Phúc thường thấy trong kinh điển, theo nghĩa hẹp; phúc thường thấy trong pháp thuật, với nghĩa rộng.

Trong tam giới (Tam giới), đặc biệt là con người, nói chung, tất cả chúng sinh đều có thân tâm an lạc, đó là quả lành. Tất cả các việc thiện đều do thân, khẩu, ý tạo ra, gọi chung là thập thiện (10 việc thiện): ở thân có ba điều: (1) không sát sinh, (2) không trộm cắp, và (3) không bị dâm ô. Có bốn loại lời nói: (4) không nói dối, (5) không chửi thề, (6) không nói lời thô tục, và (7) không nói dối. Tâm có ba loại: (8) không tham, (9) không sân, (10) không si.

Tất cả phước lành của người và trời (tức là tất cả chúng sinh trong thế giới tốt hơn con người) đều đạt được bằng cách thực hành mười điều thiện này. Để được tái sinh vào cõi trời, một người phải làm mười điều thiện. Trên cõi trời có ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Muốn sanh về vô sắc giới thì phải thực hiện tứ thiền và tám định [6] . Cũng xây dựng trên mười thiện nghiệp này; hành thiền chỉ cần thêm một lớp nữa. Do đó, giáo lý Đại thừa cũng được bao gồm trong mười điều thiện, và hầu hết sự nghiệp thế tục của các vị thánh cũng được bao gồm trong mười điều thiện. Đây là những gì mười đức tính quyết định thực sự làm. [7]

2.3. Trong Triết học Hy Lạp: Tốt[8] là mục tiêu thành công trong cuộc sống của mọi người, là nguồn gốc của hạnh phúc và là mục tiêu không ngừng theo đuổi của tâm hồn. Chỉ có hiền nhân là tốt nhất, chỉ khi anh ta sử dụng nó đúng cách.

Những nhà tư tưởng đầu tiên tập trung vào bản chất và nguồn gốc của thế giới nên việc nghĩ về điều tốt đẹp xảy ra tương đối muộn, nhưng chủ đề này được bàn luận nhiều do các nhà triết học không thống nhất về bản chất của nó. Những người theo trường phái Pythagore đã đặt cái tốt lên hàng đầu trong hệ thống phân cấp của các sinh vật, đánh đồng nó với Chúa, tinh thần và đơn nguyên tạo ra các sinh vật. Ông coi cái thiện không chỉ là giá trị đạo đức, mà còn là cái đẹp, cái chân lý, cái hạnh phúc, chính xác hơn, nó vượt lên trên những giá trị thứ yếu này và đem lại cho chúng giá trị: nó tuyệt đối và triệt để.

Theo quan điểm của Aristotle, “điều tốt” được đánh đồng với động cơ đầu tiên[9], những sinh vật cần thiết, nguyên tắc, tư duy tự chủ và chức năng tự duy trì lâu dài của Chúa[10]. Đối với con người, mục tiêu chính của ý chí hợp lý là điều thiện. Ở một mức độ nào đó, mọi nghệ thuật và mọi khoa học đều hướng tới cái thiện[11]; và “cái thiện tối cao” (Ariston) là mục đích cuối cùng của cá nhân và quốc gia[12]. Do đó, trong nhiều khía cạnh, “cái thiện bao gồm nhiều phạm trù như: cái thiện cao nhất được gọi là thần và tinh thần; cái thiện cao nhất được gọi là thần và tinh thần; như bản chất, nó là đức hạnh; như thước đo , đó là thước đo đúng…[13] Đó cũng là mục đích duy nhất và hoàn hảo nhất để tạo ra hạnh phúc, khiến chúng ta tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình chứ không phải cho bất kỳ ai khác[14]. Bằng cách đảo ngược các thuật ngữ, Aristotle Ông kết luận rằng điều tốt đẹp nhất là hạnh phúc (eudaïmonia), ông đã tuyên bố rõ ràng: “Điều tốt đẹp trong chính con người là hoạt động của linh hồn theo đức hạnh“[15]. Xét cho cùng, loại hạnh phúc này là “trung thành với phần hoàn hảo nhất của bản thân”[16], là nguyên tắc thiêng liêng của lý trí chiêm nghiệm (épistêmonikon) trong khoa học chính trị[17] , Aristotle gọi là kuriotaton tốt nhất (của cộng đồng), kurios (thường được dịch là kyrios): quyền làm chủ, quyền thống trị (được dịch là Chúa trong Sách Lễ Rôma).

Xem Thêm : Anime Nam Cổ Trang Đẹp Nhất ❤ Ảnh Mỹ Nam Anime Ngầu

2.4. Chủ nghĩa kinh viện: Chủ nghĩa kinh viện chia điều thiện thành ba loại: điều tốt hữu ích, điều tốt hưởng lạc và điều tốt đạo đức.

– điều tốt có ích được tìm thấy ở Socrates, người ủng hộ điều tốt là điều hữu ích. Một số người xác định với lợi ích cá nhân. Gần đây hơn, lợi ích đã được đánh đồng với lợi ích chung. Hàng hóa hữu ích là những đồ vật hoặc hành động giúp chúng ta đạt được một mục tiêu cụ thể, dù là mục tiêu trung gian hay mục tiêu cuối cùng.

– điều tốt theo chủ nghĩa khoái lạc là cảm giác hạnh phúc có được sau khi đạt được một mục tiêu tốt hoặc làm tốt điều gì đó. Một số coi đó là người sành ăn.

– Sự tốt đẹp về mặt đạo đức là điều tốt đẹp, đáng mơ ước, được yêu thích và tìm kiếm, chứ không phải là một phương tiện hay một cảm giác. Lòng tốt đạo đức được đánh đồng với lòng tốt vị tha. Chúng tôi tìm kiếm nó, và chúng tôi làm điều đó bởi vì ngay cả sự hy sinh cũng xứng đáng. Đây là chân, thiện, mỹ của đạo đức.

Khi con người theo đuổi cái thiện thì chỉ khi đạt đến cái thiện tuyệt đối thì họ mới hài lòng. Lòng tốt xuất hiện ở nhiều cấp độ khác nhau:

của cải vật chất: Ví dụ: cơm ăn, áo mặc, tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, tiền của, của cải, danh vọng, quyền lực… phù du.

Sức khỏe tốt: Ví dụ: khỏe mạnh, sắc đẹp, trường thọ, hạnh phúc… Những điều tốt đẹp này được coi là mục tiêu trung gian, không phải là mục tiêu cuối cùng. Rốt cuộc, họ không thể hoàn hảo.

Của cải tinh thần: Ví dụ: khả năng siêu phàm của tâm hồn, nhận thức về sự thật, tình yêu cái đẹp, khoa học, nghệ thuật… Những của cải này cũng không phải là tốt tuyệt đối, bởi vì chúng không hoàn hảo, Dễ bị tổn thương và vô độ, bởi vì càng tiến bộ, càng nhiều vấn đề.

Social Good: Có nhiều giả thuyết cho rằng Điều tốt tuyệt đối là khi hoàn thiện một xã hội hoàn hảo. Theo Auguste Comte, con người là một thực thể xã hội. Cá nhân chỉ tồn tại vì xã hội, phải hoàn thành sứ mệnh của mình, góp phần hoàn thiện xã hội thì mới có được hạnh phúc đích thực. Tuy nhiên, một người không phải là một con số, một người vô danh, mà là một con người. Xã hội vì con người chứ không phải con người vì xã hội.

Thiện Thiện: Đó là các đức tính: bác ái, vị tha, hòa nhã, độ lượng… Đó không phải là lòng tốt tuyệt đối, bởi vì các đức tính có được. Giữ gìn đức hạnh gắn liền với nhiều hy sinh và kiên trì.

Tốt lành tuyệt đối: Thiên Chúa, Đấng có thể thỏa mãn khát vọng vô biên của con người: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên thần trí và linh hồn con sầu muộn, cho đến khi con được yên nghỉ trong Chúa” ( Augustine).

2.5. Khái niệm Công giáo

Có thể tóm tắt những nét chính trong luận thuyết thần học về sự thiện của Thánh Tôma[18] như sau:

1.Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn mạch sự thiện vô biên: Ngài dựng nên muôn loài vì muốn thông ban sự thiện cho các tạo vật, nhất là loài người. Nơi Thiên Chúa, lòng tốt hay tình yêu không phải là một điều trừu tượng, mà là bản chất của Người.

2. Con người luôn khao khát được biết sự thật và mong đạt được điều tốt đẹp cao cả nhất, đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người không tìm thấy hạnh phúc nào ngoài Thiên Chúa: bao lâu chưa đạt tới Thiên Chúa, lòng con người luôn khắc khoải.

3. Sự chống đối Thiên Chúa không để con người yên: chính Thiên Chúa lôi kéo họ trở lại với Người bằng ân sủng, bằng ơn Chúa Thánh Thần, bằng gương sáng của chính Đức Giêsu Kitô, hình ảnh của Thiên Chúa.

4.Con đường nên trọn lành, chân thiện mỹ (còn gọi là con đường nên thánh, con đường trọn lành, con đường trở về với Thiên Chúa là nguồn và cùng đích) là bắt chước chính mình. Đấng Christ. Nên thánh không có nghĩa là trốn tránh thực tại, nhưng là dấn thân xây dựng xã hội. Thánh nhân không phải là kẻ ngồi trên mây gió, nhưng là kẻ tìm cách nhận ra tiếng Chúa gọi giữa những bộn bề của lịch sử. Con đường nên thánh bao gồm nhiều việc lành (khổ hạnh, các nhân đức), nhưng trên hết là dục vọng và tình yêu. Con người tiến bộ về nhân đức, không phải nhờ tích nhiều việc lành, nhưng nhờ gia tăng tình yêu.

3. Kết luận

Các nhà triết học Hy Lạp tin rằng cái thiện là động cơ chính và cần thiết bên ngoài con người. Các nhà triết học Trung Quốc coi lòng tốt của con người là một phần thiện chí của Chúa. Phật giáo nhấn mạnh việc tìm kiếm kết quả tốt thông qua các hành động tốt. Công giáo cho thấy rõ ràng rằng tất yếu tồn tại, tốt lành là Thiên Chúa, và tốt lành là bản chất của Thiên Chúa.

Sự thánh thiện hệ tại ở việc sống giống Chúa Kitô, diễn tả những việc làm, suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta, như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói: “Sống thánh thiện cốt yếu là thánh thiện. Đó không phải là chúng ta. nhưng chính Thiên Chúa Chí Thánh (6:3) thánh hóa chúng ta, là hành động của Chúa Thánh Thần kêu gọi chúng ta từ bên trong. Chính sự sống của Chúa Kitô phục sinh thông ban với chúng ta và biến đổi chúng ta“.[19 ]

Xem Thêm : Số 13 Tiếng Anh Là Gì ❤️️Cách Đọc, Đếm Số Thứ Tự 13 Chuẩn

[1] George Edward Moore (1873-1958) là người ủng hộ chủ nghĩa hiện thực đạo đức và phát triển chủ nghĩa vị lợi lý tưởng như một triết lý độc lập với chủ nghĩa trực giác. Đạo đức, Oxford University Press, London, 1912.

[2] Khuôn khổ của bài viết cũng như khả năng không cho phép chúng tôi đề cập đến đóng góp của các nhà tư tưởng xoay quanh chủ đề này như archytas, euclid of megara, socrates, diogene, platon, epicure, plotin, proclus, e. Kant, Ed. George. Moore Lake Marx, vâng lời đến chết, cáo chết, Lão Tử, Trang Tử…

[3] Trần Văn Minh, Từ điển triết học và danh từ, Sài Gòn, 1966.

[4] Nghĩa đen: “Ai cũng có lòng không nỡ lòng người khác… Cho nên, lòng: người vô tình, người vô tình… Sở dĩ người ta tàn nhẫn là người có tội: vàng, người , thê thiếp hòa hợp.(Mạnh tử, Từ nguyên tố, thứ sáu).

[5] Nghĩa đen: “Ghét giấu giếm, xấu hổ ghét, ừ… dại” (sđd.).

[6] Tứ ổn định và tám ổn định là: ổn định thứ nhất, ổn định thứ hai, ổn định thứ ba và ổn định thứ tư, là bốn loại ổn định của bầu trời màu sắc. Có định nên tứ thiền cũng là bốn định, cộng với bốn định của vô sắc giới: Không trụ định, thức vô biên xứ, vô sở định, vô niệm định. Nhất định là tám định”. Bốn định cuối cùng (cõi vô sắc giới) có thể được Đức Phật lượm lặt từ Ấn định trước và sau. Tứ thiền gộp lại thành Bát định (xem kinh Đạo Uyển, Trường Nguyên biên dịch trên http://rongmotamhon.net).

[7] là kinh Phật do các pháp sư Thái Lan giảng dạy trong Hội Phật giáo Zhengxin, Trung Quốc, Trung Quốc, được dịch từ http://www.phatviet.com .

[8] Trong tiếng Hy Lạp, agathon (to): tốt, tốt (tiếng Latinh: bonum; anh: good; tiếng Pháp: le bien): tính từ agathos: tốt, tốt. Danh từ so sánh bậc nhất, to ariston (τò ìριοτον): điều tối thượng (tiếng Latinh: summum bonum).

[9] Siêu hình học, k, 1.

[10] Sđd. Một, 7.

[11] l’Éthique À nicomaque, i, i, 1.

[12] Sđd. Một, hai, 1-7.

[13] Sđd. Một, sáu, ba.

[14] Sđd. Một, bảy, 3-5.

[15] Sđd. Một, bảy, 8-15; tám, 8.

[16] Sđd. x, vii, 8.

[17] les politiques, i, i, 1.

[18] Summa Theology i-ii.

[19] Sách giáo lý về các thánh của Đức Bênêđictô XVI và giải thích chung về ý nghĩa của việc nên thánh trước buổi tiếp kiến ​​chung gồm 25.000 khách hành hương vào ngày 13 tháng 4 năm 2011.

Ừm. Nhân sư hình trụ

(emty.org cập nhật: 17/7/2012 – 22:12:56)

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button