Hỏi Đáp

Thuyết Minh Về Bài Thơ Bếp Lửa – SOANBAICHOCON

Thuyết minh bếp lửa

Giải thích thơ Lò

“Bài thơ đốt lửa” được viết năm 1963, khi tác giả rời quê hương sang Nga học luật. Xa quê, nhà thơ bồi hồi nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ, nhớ về quê hương đang còn đau thương chiến bại. Đặc biệt là ngọn lửa ấm áp và hình ảnh người bà hiền đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa ấm áp trong màn sương se lạnh của miền quê:

“Một đống lửa đung đưa trong sương mai, một đống lửa ấm áp, đầy tình bà, không biết bao nhiêu nắng mưa!”

Từ “bếp lửa” được lặp lại hai lần trở thành điệp khúc mở đầu của cả bài thơ với một âm điệu sâu lắng, khẳng định dấu ấn khó phai mờ của “bếp lửa” trong tâm trí nhà thơ. Đoạn thơ này gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh thân thuộc, quen thuộc về sự thanh bình, yên ả của con người Việt Nam bình dị. Một ngọn lửa nhỏ lẩn khuất trong làn sương trên ngọn gió nhưng luôn ấm áp. Trên những mái nhà tranh, co ro bên vách tre làng ngày qua ngày, những ngọn lửa được dập tắt rồi lại nhen nhóm.

Ít người Việt Nam không nhớ bức ảnh đó. by viet lọc bỏ mọi yếu tố xung quanh, lấy ngọn lửa làm hình ảnh trung tâm thu hút sự chú ý sâu sắc của người đọc. Ánh sáng và hơi ấm như lan tỏa khắp không gian, sưởi ấm lòng người.

Cái bếp không yên, nó luôn chuyển động. Từ láy rất thực như một nỗi nhớ, gợi nhớ hình dáng chập chờn, bập bùng của bếp lửa trong kí ức. Ngọn lửa đung đưa, đung đưa theo gió, mang bao nhiêu hơi ấm, bao nhiêu tình người. Từ “hữu iu” gợi tả sự kiên nhẫn, khéo léo và yêu nghề của người quẹt lửa, rất phù hợp với công việc bếp núc hàng ngày.

Xem Thêm : Chính thể là gì? Các hình thức chính thể Nhà nước trên thế giới?

Từ đôi bàn tay cằn cỗi của cô, ngọn lửa bùng cháy. Tự nhiên hình ảnh bếp lửa gợi lên trong lòng người cháu tình yêu thương vốn đã ấm áp: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

%3Cp%3E%E4%BD%A0%E6%BB%A1%E6%BA%A2%E7%9A%84%E7%88%B1%EF%BC%8C%E7%9B%B4%E6%8E%A5%E8%80%8C%E7%AE%80%E5%8D%95%E5%9C%B0%E8%A1%A8%E8%BE%BE%E5%87%BA%E6%9D%A5%E3%80%82%E9%82%A3%E7%A7%8D%E5%8D%95%E7%BA%AF%E7%9A%84%E8%83%8C%E5%90%8E%EF%BC%8C%E6%98%AF%E4%B8%80%E9%A2%97%E5%AE%8C%E6%95%B4%E7%9A%84%E5%BF%83%EF%BC%8C%E6%98%AF%E5%AF%B9%E5%A5%B9%E4%B8%80%E7%94%9F%E7%9A%84%E8%89%B0%E8%BE%9B%E3%80%81%E8%89%B0%E8%BE%9B%E3%80%81%E6%B4%AA%E6%B5%81%E7%9A%84%E7%90%86%E8%A7%A3%E3%80%82%E9%82%A3%E5%9B%A2%E7%81%AB%E7%BB%8F%E5%8E%86%E4%BA%86%E5%A6%82%E6%AD%A4%E5%A4%9A%E7%9A%84%E9%98%B3%E5%85%89%E3%80%81%E9%9B%A8%E6%B0%B4%E5%92%8C%E5%AF%92%E5%86%B7%EF%BC%8C%E6%AF%8F%E5%A4%A9%E6%97%A9%E4%B8%8A%E5%92%8C%E6%AF%8F%E4%B8%AA%E4%B8%8B%E5%8D%88%E9%83%BD%E4%BC%9A%E7%87%83%E7%83%A7%E8%B5%B7%E6%9D%A5%E3%80%82%E9%82%A3%E5%9B%A2%E7%81%AB%E7%87%83%E7%83%A7%E7%9D%80%E5%96%9C%E6%82%A6%E3%80%81%E5%85%89%E6%98%8E%E5%92%8C%E5%9D%9A%E5%AE%9A%E7%9A%84%E7%94%9F%E6%B4%BB%E4%BF%A1%E5%BF%B5%EF%BC%8C%E5%B0%BD%E7%AE%A1%E7%BB%8F%E5%8E%86%E4%BA%86%E5%A6%82%E6%AD%A4%E5%A4%9A%E7%9A%84%E8%89%B0%E8%BE%9B%E5%92%8C%E5%8D%B1%E9%99%A9%E3%80%82%3C%2Fp%3E

Ba câu đầu tóm tắt hồi ức của tác giả về ngọn lửa, những hồi ức và thương nhớ của bà, cảm nghĩ của Tôn Tử về cuộc sống tấp nập của nhân dân. Bà

Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm trí bà, nhà thơ trở về với kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà. Nhà thơ nhớ rõ từng khoảng thời gian vì nó gắn liền với những kỉ niệm khó quên. Đoạn hồi tưởng bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa của bà ngoại.

Bà ngoại và Hoắc là chỗ dựa tinh thần, quan tâm, chăm sóc cháu trai. Ngọn lửa quê hương, ngọn lửa tình yêu của bà, đã làm sống dậy một ký ức tuổi thơ – một ký ức theo tiếng chim đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim tu hú được lặp lại 4 lần tạo sức ám ảnh lớn.

Trong tâm thức con người, tiếng chim tu hú luôn mang lại những điều xui xẻo. Nó đại diện cho cái ác, sự ma mị, đầy chết chóc. Tiếng gọi u buồn, ngắt quãng, u sầu của loài chim ẩn dật này luôn khiến người ta cảm thấy bất an, lo lắng. Tiếng chim hót như giục giã, như khao khát một điều gì đó, khơi dậy trong lòng người nỗi nhớ nhung, mong nhớ.

Có phải là tiếng vọng từ Trời Đất để an ủi và chia sẻ cuộc sống bận rộn của cô? Có lẽ lúc bấy giờ tác giả không hề hay biết, nghe tiếng chim hót là tín hiệu đồng cảm duy nhất trong cuộc đời khốn khó của mình. Vì thiên nhiên luôn là bạn, luôn đồng lòng và không bao giờ phản bội.

Để các con yên tâm làm việc, người bà đã vất vả gánh vác mọi lo toan. Mẹ không chỉ là chỗ dựa của thế hệ mai sau, là điểm tựa cho con cháu trong đấu tranh, mà còn là hậu phương vững chắc của cả tuyến đầu, góp phần to lớn vào cuộc kháng chiến chung của cả dân tộc. Tình bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương đất nước.

Xem Thêm : Sinh 10 | Giải Sinh học 10 Kết nối tri thức, Chân trời sáng tạo, Cánh

Bếp lửa cũng là một biểu hiện cụ thể và gợi hình về sự tận tụy, chăm sóc, yêu thương cháu của người bà. Lửa là tình yêu ấm áp của cô, là bàn tay chăm sóc của cô. Bếp lửa đã gắn liền với bao gian khổ trong cuộc đời bà. Mỗi ngày, bà thắp lên ngọn lửa thắp lên sự sống, niềm vui, tình yêu thương, niềm tin và hy vọng cho con cháu, cho mọi người.

Trong cảm nhận của cháu tôi, những bài thơ của Bằng Việt bên bếp lửa thể hiện triết lý sâu sắc và để lại cho chúng tôi nhiều cảm phục. Những gì gần gũi nhất của tuổi thơ, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ bước chân con người trong hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu thương ông bà, cha mẹ và từ những điều gần gũi, bình dị nhất.

Truyện ngắn Thơ Lửa – Bài 2

Bằng Việt Nam tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở thạch thất- hà tây (nay là Hà Nội). Các nhà ngoại giao Việt Nam bắt đầu làm thơ từ đầu những năm 1960 và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thơ của những tài năng Việt Nam, thường hướng đến tâm sự, trao đổi ý kiến, nhưng vẫn trẻ trung, hồn nhiên, đem lại cảm giác gần gũi, thân thiết cho người đọc. Một đặc điểm nữa của thơ Việt Nam là tính chiêm nghiệm sâu lắng, thích hợp cho người đọc thơ đọc thầm.

Đó là dấu ấn riêng mà thơ ca Việt Nam để lại trong lòng người đọc. Anh là một trong số ít những nhà thơ trẻ được độc giả yêu mến ngay từ đầu. Sau khi cùng Lữ Quang Vũ đồng tác giả “Tập thơ Lửa” là các tập thơ: “Khoảng trời”, “Đất sau mưa”, “Khoảng cách của ngôn từ”… Tác giả đã đoạt giải nhất Văn học Nghệ thuật Hà Nội Giải thưởng Năm 1967, thơ trở lại trong lòng tôi. 1982 Giải thưởng chính thức của Quỹ Hòa bình (Liên Xô) về Dịch thuật Văn học Quốc tế và Phát triển Trao đổi Văn hóa Quốc tế.

Bài thơ Bên Bếp Lửa được viết bằng tiếng Việt năm 1963 khi tôi đang học đại học ở Nga, sau được in trong tập thơ về cây cối Bên Bếp Lửa. Đoạn thơ tả tình sâu nặng, thấm thía giữa ông bà và cháu trong những năm đất nước gặp nạn. Nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ, những kí ức xúc động về bà và ông bà với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa, bàn tay bà thắp lửa ca ngợi đức hi sinh, cần cù và tình yêu thương vô bờ bến của bà. . .

Em xin bày tỏ lòng kính yêu, kính trọng và biết ơn tới bà, tới gia đình, quê hương, đất nước của em. Bài thơ còn thể hiện một ẩn ý triết lý: những gì gần gũi nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức soi sáng, nâng đỡ họ suốt cuộc đời.

Đến với bếp lửa, ta gặp lời thơ nhẹ nhàng, giản dị mà thấm thía, sâu sắc, phù hợp với dư vị và suy ngẫm. Hình ảnh thơ mang nhiều tính tượng trưng và có chiều sâu triết lí.

Trong cuộc sống hiện đại, ở vùng quê nghèo khó ấy, chắc không mấy ai biết đến bếp lửa như chị. Nhưng bếp lửa và những thi nhân bằng tiếng Việt sẽ mãi khơi dậy ký ức về nếp sống gia đình và tình yêu truyền thống dân tộc Việt Nam.

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button