Hỏi Đáp

Tô Hoài, nhà văn của mọi lứa tuổi – Tạp chí Tuyên giáo

Tô hoài thời trẻ

Nhà văn Đỗ Hoài, được mệnh danh là “Nhà văn của mọi thế hệ”, đã để lại dấu ấn chói lọi trên nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện cổ tích thiếu nhi; chuyên viết về con người và cuộc sống và cuộc sống cao nguyên; nhà văn viết về Hà Nội xưa hay nhất truyện, viết Tự truyện giống như tiểu thuyết…

Thạc sĩ Văn học Việt Nam

Nhà văn Đỗ Hoài Ái tên thật là Nguyễn Sâm, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 tại quê mẹ, làng Nghi Đô, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Nghi Đô Phường, huyện Mộc Kiều, thành phố Hà Nội). Gia đình có truyền thống làm giấy dó. Đây cũng là nơi nhà văn đã sống và gắn bó từ khi còn nhỏ.

Khi còn trẻ, tôi phải trải qua nhiều công việc khác nhau. Ông cống hiến cho văn chương ở tuổi 18, 20, lấy bút danh là Hoài (ghép tên con sông Tô Lịch chảy qua làng Nghĩa Đô nơi ông ở và quê hương ông là Đức Hoài).

Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Hoài Hoài được xuất bản ở Hà Nội Xinwen, và cuốn tiểu thuyết thứ bảy của ông nhanh chóng thu hút sự chú ý của độc giả đương thời. Ông nhanh chóng tạo dựng được tên tuổi với hàng loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: “Chú dế mèn”, sau này ông bổ sung và đổi tên thành “Những cuộc phiêu lưu của chú Dế Mèn”, “Quê hương”, “Chú chuột chũi”, “Vầng trăng thề nguyền”. , “Nhà Nghèo” “…từ những tác phẩm này, người đọc có thể cảm nhận được sức sáng tạo phong phú của nhà văn trẻ với đề tài có hai chủ đề: truyện về loài vật và truyện về làng quê ngoại ô vốn nghèo.

Có lẽ từ trước đến nay trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về loài vật nhiều và độc đáo như Đỗ Hoài. Thông qua các tác phẩm tiêu biểu như: “Những cuộc phiêu lưu của Dế Mèn”, “hay chuột cống”, “Chuột bạch”, “Tuổi trẻ”, “Đá mặt trời đôi”, “Đột ​​phá dâu tây”, “mẹ ngan”. liên quan đến nhiều vấn đề trong đời sống xã hội.

Xem Thêm : Làm xét nghiệm NIPT là gì và những điều cần biết | Medlatec

Ngoài truyện loài vật, ông còn miêu tả sinh động những câu chuyện bi hài của cuộc sống. Cuộc sống cơ cực của những người nghèo, những kẻ lang thang, lưu lạc nơi xứ người, người nghệ nhân phá sản, được tác giả đồng cảm chân thành trong từng trang sách. Với bà cụ (mẹ già), chị (ông già và bà già), Mala Xiang (con nợ), người nhà của cha giải tội (ở nhà buổi chiều)…, hiện thực mà người đọc trăn trở đầy bất hạnh.

Sau 1945, tư duy sáng tạo của tôi thay đổi. Anh nhanh chóng có cái nhìn sâu sắc về hiện thực cuộc sống và sáng tác thành công nhiều tác phẩm có giá trị thuộc nhiều thể loại khác nhau. Sự chuyển sang sáng tác hội họa thể hiện rõ cả về đề tài lẫn chủ đề. Tôi chưa bao giờ giới hạn nội dung và đối tượng phản ánh trong bối cảnh một vùng quê nghèo ngoại thành Hà Nội mà ông từng nhấn mạnh, mà là một không gian rộng lớn, với cuộc sống của nhiều tầng lớp, nhiều vùng miền, nhiều vùng đất khác nhau. Ông viết về Đại Sơn, “Cứu nước với núi”, “Chuyện Tây Bắc vĩ đại”, “Miền Tây”… Ông viết về những anh hùng dân tộc thiểu số trung kiên, trung nghĩa, dũng cảm. Các quốc gia và quê hương như “Hoàng trẻ Wentu”, “Jin Dong”, “giang a tao”, “một cây gậy”…

Sau này, ngòi bút của ông vẫn hướng về xã hội trước 1945, với tầm nhìn và suy nghĩ sâu sắc hơn. Ông viết “Mười năm” để cảm nhận nhiều thay đổi từ quan điểm của đời sống hiện tại, có ý nghĩa to lớn đối với đời sống dân tộc. Tiếp tục sáng tác hoài niệm, qua “quê hương”, “phố, người trên phố”, “chuyện xưa Hà Nội”… để cho thấy vốn sống, nguồn chất liệu và cảm hứng sáng tác của tôi về Hà Nội vô cùng đa dạng. Từ những bài viết về Hà Nội của ông, người đọc có thể hiểu hơn về phong tục, tập quán sinh hoạt, tên đường và con người Hà Nội trong đời thường, chiến tranh và hòa bình trong suốt thế kỷ 20. .

Phó giáo sư. Cùng với nguyễn tuấn, thạch lam, vũ bang…, Tô Hoài đã để lại nhiều ngôn từ đặc sắc, bởi ngôn từ của ông không chỉ thể hiện văn hóa, thuần phong mỹ tục mà còn thể hiện cả “tâm hồn” của người Việt. người Hà Nội. Không chỉ Hà Nội hôm nay, mà cả những “chuyện xưa” của Hà Nội cũng được thể hiện bằng cả trái tim.

Không chỉ đạt được thành công ở thể loại truyện ngắn mà ông còn đạt được những thành tựu đặc biệt về hình thức. Nhiều bút ký của ông ra đời sau khi ông đi đến các vùng đất khác nhau như “Nhật ký Tây Nguyên”, “Bye Bye More”… hay đến các nước bạn bè như “Tôi đã từng đến Campuchia”, “Thành phố Lênin”… ., “Bông hồng vàng trước cửa nhà”… đặc biệt là những hồi ký của Đỗ Hoài luôn gắn liền với những vui buồn ước mơ tuổi thơ, cũng như những kỷ niệm về bạn văn và cuộc đời văn chương của ông như: “Cỏ hoang” , “Tự truyện”, “Chân bụi”, “Chiều”…

Nói về nhà văn Đỗ Hoài, PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp cho rằng, Đỗ Hoài là nhà văn của mọi lứa tuổi. Tức là trẻ con, người lớn lúc nào cũng có thể soi mình trong bát. Về số lượng, tôi đứng đầu danh sách với gần 200 đầu sách. Nếu tính theo tinh anh là nhà văn đã đạt đến trình độ cao nhất trong giới văn chương. Tôi luôn có “bồ câu” của riêng mình. Viết nhiều, nhưng trước sau Hoài vẫn không ngừng trở về ngoại thành Hà Nội và mảnh đất hai người ở vùng Tây Bắc mà ông gắn bó sâu nặng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và sau đó nhiều lần trở lại.

“Tôi luôn nhìn thế giới này, và thấy rằng thế giới này không thơ mộng và lãng mạn. Anh ấy thấy cuộc sống không có gì nghiêm trọng, nhưng nó cũng rất nghiêm túc. Anh ấy không nói điều gì vĩ đại, anh ấy nói. Những câu chuyện xung quanh tôi chuyện của tôi, chuyện của bạn bè, của những người thân thiết với tôi”, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp nói.

Xem Thêm : Chùm ảnh: Bác Hồ ở Việt Bắc – Ban Quản lý Lăng

Nhà văn thiếu nhi

Trong sự nghiệp sáng tạo bền bỉ gần 80 năm của mình, Đỗ Hoài Ái đã để lại một số lượng đồ sộ gần 200 tác phẩm, trong đó có hơn 60 đầu sách thiếu nhi thuộc nhiều thể loại khác nhau. . .

Nhắc đến bát, nhiều người nghĩ ngay đến “dế mèn phiêu lưu ký”. Đỗ Hoài ở tuổi đôi mươi đã viết một kiệt tác cùng tên. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, “Những cuộc phiêu lưu của anh hùng Dế Mèn” do ông viết không chỉ viết cho thiếu nhi mà còn viết cho cả người lớn, bởi ẩn chứa trong tác phẩm này những bài học nhân sinh sâu sắc. Qua đây ta thấy được óc quan sát nhạy bén, nhạy bén của Đời. Dựa vào tính chất, đặc điểm của con vật, em đang miêu tả con vật gì?

“Những bức ảnh của tôi có thể tái hiện chi tiết và tạo cảm giác trôi chảy hợp lý giữa các cảnh. Màu sắc du ký và tự truyện đan xen và tràn đầy sức sống. Với “Dế mèn phiêu lưu kí”, Hoài đúng là một tác giả hàng đầu về nghệ thuật miêu tả thế giới động vật”, PGS Nguyễn Đăng Điệp nhận xét.

Ngoài tác phẩm nổi tiếng “Những cuộc phiêu lưu của chú dế mèn”, ông còn có hàng loạt tác phẩm được nhiều thế hệ thiếu nhi yêu thích như: “Giấy mực”, “Chuyện về cái đầu tôi”, “Ngọn cờ sậy”, v.v. . , “Phó tư lệnh”, “Chuyện ông già”, “Đấm bốc bọ ngựa”, “Ba anh em”, “Ba ông nội”, “Chuyện ngày chủ nhật”, “Mèo Lười”, “Đám cưới lúa”, “Đảo hoang”, “Nỏ thần” the Gods, The Lost Oriole… Trong sáng tác này, dù là đề tài đời thường, cổ tích hay lịch sử, dù không còn trẻ nhưng tôi vẫn có cách cảm nhận và thể hiện qua những tác phẩm văn học phù hợp với tâm hồn và lối cảm nhận tuổi thơ của mình. của cuộc sống. Người dẫn dắt các em bước vào một thế giới đầy những điều tốt đẹp, góp phần hình thành nhân cách, vẻ đẹp, sự trong sáng, cao thượng của tâm hồn trẻ thơ.

Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, điều đặc biệt nhất trong các tác phẩm thiếu nhi của Dư Hoài là anh không giả làm trẻ thơ để kể chuyện thiếu nhi như nhiều nhà văn khác. .Anh ấy rất hiểu suy nghĩ của trẻ, kể chuyện theo cách suy nghĩ của trẻ, giải thích mọi việc theo logic của trẻ. Hơn nữa, nhà văn đã tạo ra một thế giới gần gũi với trẻ thơ bằng tài năng miêu tả loài vật của mình. “Truyện thiếu nhi của tôi sẽ không sa đà vào giáo dục đạo đức cứng nhắc cho trẻ mà bắt trẻ tập làm người lớn ngay từ nhỏ. Từng bước một, trẻ sẽ dần hiểu đời từ bài học đầu đời”, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp Say.

Là một tài năng kiệt xuất trong giới văn học nghệ thuật nước nhà, Đỗ Hoài Ái đã đoạt giải nhất của Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1956 và nhiều giải thưởng sáng tác khác cho tuyển tập Chuyện tình Tây Bắc vĩ đại; năm 1970, tiểu thuyết “Quê hương” đoạt giải nhất Hội Văn nghệ Hà Nội; tiểu thuyết “Miền Tây” đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Á-Phi năm 1970, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Hồ Chí Minh lần thứ nhất năm 1996 và Giải thưởng Bùi Xuân Pai-2010 Tình yêu Hà Nội. Tác phẩm của Đỗ Hoài đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trình bày ở nhiều nước, như: Nga, Anh, Trung Quốc, Pháp, Ba Lan, Séc, Đức, Bungari, Cuba, Mông Cổ, Nhật Bản…/.

Theo ttxvn

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button