Giáo Dục.

Nội dung và hình thức. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận

Nội dung và hình thức. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận

Nội dung và hình thức. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận

I. Khái niệm 

– Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả các yếu tố quá trình tạo nên sự vật.

Ví dụ: Nội dung của chiếc xe hơi là có 04 bánh cao su, chứa được 4-6 người, sử dụng nhiên liệu là xăng hoặc dầu, tốc độ chạy từ 30 – 200 km/h.

– Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sv, là hệ thống các MLH tương đối bền vững giữa các yếu tố để tạo nên sv đó.

Cần phân biệt giữa phạm trù “hình thức” trong triết học với hình thức bên ngoài của sự vật. Phạm trù “hình thức” chủ yếu để chỉ hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.

Ví dụ: Hình thức của chiếc xe hơi là các bộ phận được làm từ thép, nhựa, cao su…, động cơ được bố trí ở phần trước của xe, có nút đề khởi động động cơ, có ghế lái xe và ghế ngồi đệm mút…

Nội dung và hình thức. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận

Bức tranh: Nội dung là chân dung chú sư tử. Hình thức là sự kết hợp giữa các màu sắc tạo nên một bộ mặt sư tử rất ấn tượng.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nội dung và hình thức có mối quan hệ biện chứng như sau:

1. Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.

 – Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự vật nào chỉ có nội dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không có nội dung. Do vậy, nội dung và hình thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.

– Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt, những yếu tố này không tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.

Như thế, những mặt, những yếu tố… vừa là chất liệu làm nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Do đó, nội dung và hình thức không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.

Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức.

– Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức. Ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.

Ví dụ:

Một số doanh nghiệp có thể tương đồng nhau về số lượng vốn nhưng lại có phương thức kinh doanh ít hay nhiều khác nhau, từ đó tạo nên tính hiệu quả kinh doanh khác nhau; ngược lại, cùng một phương thức kinh doanh nhưng lại có thể thích hợp với một số doanh nghiệp có số lượng vốn ít nhiều khác nhau.

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Giữa nội dung và hình thức không phải luôn luôn có sự thống nhất. Thông thường, quá trình biến đổi, phát triển của một sự vật được bắt đầu từ sự biến đổi nội dung của nó (dưới một hình thức phù hợp), tới một giới hạn nhất định sẽ xuất hiện sự không còn phù hợp giữa nội dung và hình thức. Khi đó sẽ xuất hiện nhu cầu thay đổi hình thức tạo nên sự phù hợp mới.

Xem Thêm : Sinh năm 2014 là mệnh gì, là năm con gì ? Tuổi nào hợp nhất ?

Vì vậy, vấn đề mấu chốt trong nhận thức và thực tiễn là nghiên cứu sự vật từ quá trình biến đổi nội dung của nó và xác lập sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.

Ví dụ:

Dưới một hình thức kinh doanh phù hợp, số lượng vốn của doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Đến một giai đoạn nhất định, nó đòi hỏi phải thay đổi cách thức tổ chức kinh doanh cũ, xác lập cách thức kinh doanh mới để bảo toàn lượng vốn cũ và không ngừng thực hiện sự tăng trưởng của doanh nghiệp.

2. Nội dung quyết định hình thức.

Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung có vai trò quyết định đến hình thức.

Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi. Còn hình thức là mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.

Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung. Còn hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.

Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.

Ví dụ: Nội dung quan hệ giữa anh A và chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình thức quan hệ giữa hai người không có “giấy chứng nhận”. Khi anh A và chị B kết hôn, nội dung quan hệ đã thay đổi, thì hình thức quan hệ buộc phải thay đổi khi hai người buộc phải có “giấy chứng nhận kết hôn”.

3. Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung.

– Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó không có nghĩa là hình thức chỉ “ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái lại, hình thức luôn độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại nội dung.

Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại, nếu không phù hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển.

– Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của sự vật.

Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội dung. Lúc này, hình thức không phù hợp với nội dung nữa.

Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức cũ, hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát triển và chuyển sang trạng thái mới về chất.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

Xem Thêm : Các ✅ Công thức vật lý lớp 6 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐

1. Không tách rời nội dung với hình thức.

Do nội dụng và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần chống lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung với hình thức. Ở đây cần chống lại hai thái cực sai lầm:

+ Hoặc là tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung.

Ví dụ: Trong cuộc sống chỉ coi trọng vật chất xa hoa mà coi nhẹ tâm hồn con người.

+ Hoặc là tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.

Ví dụ: Trong cuộc sống, chỉ biết đến rèn luyện nhân cách, tâm hồn mà không chú ý đến phương tiện vật chất tối thiểu.

2. Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật.

Vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần căn cứ trước hết vào nội dung của nó. Và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần tác động để thay đổi trước hết nội dung của nó.

3. Phải theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.

Vì hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của nội dung, nên trong hoạt động thực tiễn cần luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của sự vật để có thể  kịp thời phát hiện, can thiệp vào tiến trình phát triển của sự vật theo hướng có lợi nhất.

Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều kiện để hình thức phù hợp với nội dung. Ngược lại, nếu thấy sự vật phát triển lên sẽ có hại, cần tìm cách để hình thức không phù hợp với nội dung.

4. Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.

– Vì cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức, ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, nên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi loại hình thức có thể có (mới và cũ), kể cả phải cải biến những hình thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn.

– Ở đây cũng cần tránh hai thái cực sai lầm:

+ Hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái mới.

+ Hoặc phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới. Chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức một cách tùy tiện, không có căn cứ.

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button