Hỏi Đáp

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11 hay nhất

đây thôn vĩ dạ

Video đây thôn vĩ dạ

Phân tích thơ lớp 11 bài thơ ngắn của Han Miketu với dàn bài chi tiết, sơ đồ tư duy và 25 bài văn mẫu hay nhất do các thầy cô biên soạn. Những bài văn hay được tuyển chọn từ các học sinh giỏi trên cả nước sẽ giúp các em học sinh giỏi. có nhiều ý tưởng mới hơn để hoàn thành phân tích của họ. Đồng thời, qua khung cảnh thiên nhiên đẹp như tranh vẽ và quan niệm nghệ thuật của nhà thơ, các em hãy cảm nhận được hồn thơ độc đáo và thế giới cảm xúc phong phú, nhạy cảm của Hammect.

Đề: Phân tích đoạn thơ Đây là làng Vida của Hammecto

Sao em không về làng chơi? Sun Qing nhìn lên với vẻ mặt buồn bã trong hàng ghế mới. Vườn nhà ai bằng phẳng, xanh như lá tre che cả mặt.

Gió theo gió, mây là mây, nước buồn, hoa ngô đồng đung đưa… Thuyền ai sông trăng, có chở trăng về đêm nay?

Mơ một người khách phương xa, một người khách phương xa, áo trắng thương nhớ… Nơi đây sương mù, biết ai thương ai hơn?

Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – mẫu 1

Tôi. Giới thiệu:

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

– Hàn Kết Đồ là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới.

– Những bài thơ từ Mad Poems.

– Nội dung: Bài thơ này là lời đáp đầy xúc động của Hàn Kết Đồ đối với Kim Cư của Hoàng khi ông gửi một bức thư chúc ông chóng bình phục và kèm theo một bức tranh phong cảnh.

– Bài thơ kết hợp giữa cảnh và tình trên tông màu mơ màng, mơ màng.

Hai. Văn bản:

khắc 1: Cảnh thiên nhiên Huế

Câu 1:

Sao em không về làng chơi

Câu thơ là dấu hỏi chấm lửng, thể hiện nỗi nhớ nhung, trăn trở

– Đây là một lời mời bổ sung thân thiện

– là sự trách móc, là sự giận dữ thông minh, chân thành

-Thể hiện rằng tác giả đã lâu không về Làng Vỹ.

Câu 2,3:

Ngước lên mặt trời, mặt trời chói chang

Vườn ai xanh như ngọc

-Cảnh thiên nhiên trông thật đẹp, rực rỡ và xanh tươi

– Cảnh mang vẻ đẹp thanh tao, nhẹ nhàng

– Mang đến cho người đọc cảm giác sảng khoái, êm dịu, du dương, bay bổng

Câu 4:

Lá tre che mặt chữ

– Hai đường kính đối lập: một mặt vuông vức đầy tinh tế của lá tre

– Thể hiện sự thanh lịch, điệu đà và e ấp của một cô gái quê vừa xinh đẹp vừa tài năng.

Khu vực 2: Quan niệm nghệ thuật về thiên nhiên

<3

——Cuộc chia ly được ghi lại trong lớp trầm buồn của lòng sông: nước buồn; hoa ngô đồng đung đưa trôi.

– Cảnh vật chỉ là bức màn, cho thấy lòng người “Người có buồn mà cảnh chẳng vui”. Cảnh đẹp như vậy mà người ta không thể về thưởng ngoạn thì có còn đẹp không? Anh nhớ em, lòng anh nhớ em, anh mong em.

Phần 3 và 4:

“Thuyền ai đậu trên sông Trăng

Đêm nay có thể đưa trăng về quá khứ”

Các bạn đang xem: Phân tích bài thơ “Làng này thôn Vĩ Dạ” của Hàn Kết Đồ, học sinh giỏi lớp 11 (25 bài văn mẫu)

Vầng trăng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca Hàn. Mặt trăng là nơi con người gửi gắm những tâm tư, tình cảm sâu kín. Nhưng đây là “Moon River Pier”. Đây vừa là hình ảnh hiện thực – ánh trăng rắc trên mặt nước, rắc trên mặt nước, vừa là hình ảnh tượng trưng – bâng khuâng (thuyền ai), vô biên, bâng khuâng. Tình cảm của tác giả thật lan tỏa, sâu lắng và rộng lớn. Người lúc này là nước mắt, là một loại bi thương, một loại đau lòng.

– Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh đã viết về Hàn Mặc Tử trong Thi nhân Việt Nam: “Vườn thơ người mênh mông vô biên, càng xa càng lạnh”.

Đoạn III: Sự kì ảo của tâm hồn nhà thơ.

– Đoạn này là lời tự thú mô tả hoàn cảnh thật của tác giả: căn bệnh của một người khiến tầm nhìn bị hạn chế: không nhìn được, hình ảnh nhòe đi. Để rồi con người rơi vào cảnh cô đơn, đáng tiếc.

– Thể hiện một ước mơ giản dị: Để mở lòng với khách phương xa, tác giả mong rằng có thể về làng để ngắm cảnh, làm quen với người dân trong làng, để đền đáp tình yêu quý của mình đối với em. bạn.

– Áo em trắng quá nhìn không ra :

+ Cô gái Huế thướt tha trong tà áo dài.

Khói mở ra hình ảnh ở đây: cảnh vật thiên nhiên nơi tác giả sống. Đối với tác giả, mọi thứ giờ chỉ còn là ảo ảnh, mờ ảo và không còn rõ ràng.

Biết đâu tình ai giàu: Dù trong ốm đau, khó khăn, cô đơn, lòng tác giả vẫn tràn đầy tình yêu: đó là lòng yêu nước, yêu nước, là tình cảm sâu nặng gửi đến các bạn.

Tình yêu ấy luôn dạt dào, phong phú và nồng nàn.

Ba. kết thúc

Nghệ thuật:

– Chuyển thể thơ linh hoạt: không vận động theo thời gian, không gian mà nhất quán, đồng điệu với lòng người.

– Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng các gam màu đậm nhạt đan xen nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,… => Tạo nên một thế giới thần tiên mộng mơ, bay bổng, tươi đẹp.

– Câu hỏi tu từ cuối mỗi câu thơ gợi cảm giác nhớ nhung da diết.

– Nhịp thơ không tuân theo một quy luật nào mà do dòng cảm xúc và tiếng lòng của chính tác giả quyết định.

=>Thể hiện sâu sắc tình cảm tác giả muốn gửi gắm.

Nội dung:

-Thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương của tác giả.

– Tình yêu mãnh liệt và nồng nàn dành cho cô bạn Hoàng Thị Kim Cúc.

– Khát vọng mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng tất cả những cảnh đẹp và con người trên thế giới.

Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – mẫu 2

Tôi. Lễ khai mạc

– Giới thiệu tác giả

– Giới thiệu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Hai. Nội dung bài đăng

1. Đoạn 1 Phân tích: Bức tranh đẹp về cảnh vật và con người xứ Huế.

– Hình ảnh được chiếu qua lời mời, trong đó có lời quở trách thân mật:

Sao em không về làng chơi?

– Màu xanh ngọc bích của ánh ban mai trong vắt tái hiện khung cảnh này qua nhiều nét phác mềm mại, trang nhã, ấn tượng.

– Cuối cùng, sự tương phản độc đáo giữa phông vuông và những khóm lá tre nằm ngang gợi lên nét nghịch ngợm, hiền lành, đáng yêu vốn có của vùng quê.

2. Phân Tích Mục II: Nhìn Cảnh Sầu Bằng Nội Tâm.

– Cảnh đẹp nên thơ nhưng lại lay động lúc chia tay một cách hoang vắng trong một thể thơ độc đáo: gió cuốn theo gió/ mây nối theo mây. Dòng sông như một tấm gương, ghi lại cảnh chia tay, thật thê lương, những bông ngô đồng để tang, tâm trạng của thi nhân cũng theo đó mà tuôn trào.

– Vầng trăng chiếm một khoảng không gian đáng kể trong bài thơ, ánh trăng lạ lùng, khác thường. Ta gặp nhau trong thơ anh, ảnh:

Trăng sáng đưa cành liễu

Chờ gió đông về

(xấu hổ)

– Câu trung lập: “Thuyền ai?”, tiếp theo là “Bến sông trăng”. Quả thật, như Hoài Thanh đã viết về Hàn Mặc Tử trong Thi nhân Việt Nam: “Vườn thi nhân rộng vô biên, càng xa càng lạnh”.

3. Phân tích đoạn cuối: Cảnh vật và nhân vật đắm chìm trong mộng ảo.

——Lòng thi nhân như đang trong mộng (mơ thấy khách phương xa). Bệnh tật cũng khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn bã và ảo giác (hình ảnh vô hình, mờ ảo). Kết quả là con người và cảnh vật mờ đi trong sự cô đơn và ngậm ngùi.

– Trong giấc mơ cô đơn, buồn đau, trái tim nhà thơ vẫn âm thầm muốn nhắn gửi người và đời, như một lời tâm tình tội nghiệp:

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

– Chúng tôi không thể xác định mức độ mà anh ấy thể hiện lòng yêu nước của Hen Mektu. Tuy nhiên, điều chắc chắn là Hàn Kết Đồ rất yêu đời, rất yêu quê hương. Chúng tôi cũng không ngờ trong tập thơ “Thằng điên” lại có những bài thơ giàu chất hoài cổ đến vậy.

Ba. kết thúc

– Tổng kết giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm

Sơ đồ tư duy phân tích Dưới đây là chi tiết

25 bài văn mẫu phân tích bài thơ Làng này lớp 11 hay nhất

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 1

Han Mike Tu – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn đầy yêu thương, đã mở đầu cho tiếng thơ và tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những lúc vui buồn, những lúc ông thả hồn vào thơ, những lúc ông chắt lọc và thăng hoa từ nỗi đau tâm hồn để viết nên những vần thơ tuyệt vời. Và bài thơ “Đây thôn Vida” đã ra đời trong những khoảnh khắc đẹp đẽ đó. Tình thơ trong sáng, ấm áp hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, tình riêng xen lẫn với tình thương nhau, bài thơ vẫn đượm một nỗi buồn.

The Village là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hammetto. Một tình yêu rực lửa, đầy u uất ẩn hiện trong cảnh sắc thiên nhiên và tan vào lòng người, thực và ảo, ảo và cụ thể bổ sung cho nhau.

Câu thơ mở đầu là lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao em không về làng chơi.

Chỉ một vấn đề! Bài toán của một cô gái quê xinh đẹp nhưng đầy yêu thương và nhiều mong chờ. Bài thơ thể hiện sự trách móc, tiếc nuối của cô gái với người yêu vì đã lỡ đánh mất vẻ đẹp mặn mà, ấm áp của miền quê – một vùng quê ngoại ô xinh đẹp và thơ mộng. Vẻ đẹp của Huế.

Cùng chú ý và thưởng thức vẻ đẹp của ngôi làng nhé:

Ngước lên mặt trời, mặt trời chói chang

Vườn ai xanh như ngọc

Lá tre phủ kín mặt chữ.

Đặc điểm của thôn Vĩ – quê hương của cô gái được nói đến trong câu đầu tiên đã được nói rõ. Một bức tranh thiên nhiên kì vĩ mở ra trước mắt người đọc. Bức tranh mặt trời chiếu trên ngọn cây trầu bà đẹp rực rỡ. Mặt trời mọc là bắt đầu một ngày, cây trầu cao vươn mình đón tia nắng đầu tiên, vạn vật tràn ngập ánh nắng bình minh. Sao nắng mới dậy hoài niệm đến thế. Bài thơ này làm ta chợt nhớ đến những câu quen thuộc trong Chunshi.

Nắng xuân trong lành chiếu trên những hàng dừa xanh dịu, những tàu trầu tỏa ánh xanh vờn những trái non trắng muốt, tan trên lá cành chanh.

nắng mới còn chỉ tia nắng mùa xuân, bắt đầu một năm mới nên luôn rực rỡ. Đó là tia nắng đầu tiên rơi xuống bản làng chưa chạm tới giàn trầu làm sương đêm sáng lấp lánh như những viên ngọc quý trong chiếc áo nhung xanh mượt mà:

Vườn ai xanh như ngọc

Ánh mắt như chạm nhẹ vào màu sắc của vạn vật, rồi vỡ òa trong sự ngỡ ngàng đến ngây người. Đến với bài thơ này, ta thấy đôi mắt trầm và rộng của nhà thơ. Không gian xanh mướt của khu vườn hiện ra, nhắm mắt lại bạn hình dung ngay ra màu xanh mượt mà, mỡ màng của khu vườn. Ở đó ta không chỉ cảm nhận được màu xanh tươi đẹp mà còn tràn đầy sức sống dịu dàng. Lá cành bị sương đêm gột rửa, hóa thành lá ngọc. Không xanh mướt cũng không xanh mỡ màng, chỉ có màu xanh ngọc bích mới lột tả được vẻ đẹp và sức sống vô biên của khu vườn. Màu xanh cao quý, lung linh, trong trẻo làm bừng sáng khu vườn. Dường như cả khu vườn được tắm mình trong làn không khí trong lành, trong lành không vương chút bụi trần. Lăng kính không khí đó thể hiện rõ hơn các đường màu của cảnh mà mắt thường của chúng ta không nhìn thấy. Không có tình yêu sâu nặng và nồng nàn dành cho Ngụy Đại, Hàn Kết Đồ không thể có những vần thơ trong sáng như vậy. Những người sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt là ở Huế, chỉ thấm thía mấy câu thơ này:

Lá tre phủ kín mặt chữ.

Trong khu vườn của làng Vida, lá tre và các mặt của ô chữ có một mối quan hệ đẹp đến bất ngờ: lá tre mảnh khảnh che đi khuôn mặt của các nhân vật. điền mặt – Khuôn mặt ngày càng thấp thoáng sau lá tre mơ màng, hư ảo.

Vida Village nằm bên bờ sông Hương êm đềm. Vì vậy, tác giả chuyển từ tả cảnh nông thôn bộc lộ tình cảm ở đoạn đầu sang tả cảnh sông nước thơ mộng, trầm tư, mơ màng và man mác:

Gió cuốn theo chiều gió

Nước buồn, bông ngô đung đưa

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không?

Gió mây gợi nỗi buồn, bởi nó bồng bềnh phiêu lãng, nay còn hoang vắng hơn gió theo gió, mây theo mây, gió mây đi, không bạn không gặp, không gặp nhau , cuộc chia ly giữa nhà thơ và người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là tình cảm và nỗi nhớ nhung xa xăm của nhà thơ, và đây cũng là mặc cảm của những người già trong cuộc đời. Nỗi buồn chia ly và chia tay, với một chút buồn bã và cảm xúc phân tán, vẫn còn trong trái tim mọi người. Không thấy giọng văn tươi tắn, sôi nổi ở đoạn cuối, ta gặp lại Hàn Kết Đồ – một tâm hồn u sầu:

Dòng hoa ngô đồng buồn

Xianghe trông thật ảm đạm trên nền hoa ngô xám, một màu ảm đạm như khói. Một tâm hồn hung dữ như Hàn Mai Tử thì dòng sông lười ở Huế cũng chỉ là một dòng sông buồn khiến người ta xót xa, cô đơn. Những bông hoa cũng khẽ đung đưa trong nỗi buồn xa xăm. Thay đổi tư duy là thái độ của một người đang sống trong ngõ cụt, ngõ cụt của cuộc đời. Mặt nước sông Hương êm đềm, gợi nhớ những bến bờ xa xăm, những mảnh đời bồng bềnh. Tâm trạng vui – buồn mà buồn nhiều hơn, chúng ta gặp rất nhiều ở các nhà thơ Lãng mạn khác sống cùng thời Hán. Thơ mộng và hoang vắng, tiếp tục ở hai câu cuối nhưng với cách diễn đạt thì đẹp chân thực mà cứ như mộng:

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Cỏ mang trăng về đêm nay?

Mọi thứ như tan vào vầng trăng quen thuộc của Hàn Motu. Khung cảnh thiên nhiên có tầm nhìn bao quát, vầng trăng tròn vành vạnh sáng lấp lánh trên mặt sông, soi bóng lấp lánh mặt nước sông và bãi bồi, với nhiều tư thế, biểu cảm khác nhau. Khung cảnh ấy nên thơ, nên thơ biết bao! Cũng rất tốt bụng! Dòng nước buồn đã thành dòng sông trăng lấp lánh, con tàu chở khách đã thành con thuyền trăng. Tác giả gửi gắm niềm mong mỏi, nhớ nhung, da diết của mình cho con thuyền trăng và cả dòng sông trăng. Những vần thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật tinh tế bổ sung cho xứ Huế mộng mơ. Tác giả viết những vần thơ nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng chứa đựng tình yêu bao la, nồng nàn. Vầng trăng trong hai câu này là vầng trăng tròn của nhà thơ trước mối tình bất tử. Hàn Mạch rất yêu trăng, nhưng trăng trong các bài thơ khác không như vậy. Ánh trăng chói lọi, kỳ dị, ánh trăng mê hoặc, phù phiếm:

Gió nổi, trăng lặn

Giả vờ tan chảy thành một vũng vàng.

Cỏ khô:

Trăng sáng đưa cành liễu

Chờ gió đông tan.

Mặt trăng biến thành hơi thở, bao phủ tất cả cảm xúc và suy nghĩ của Hàn Motu, và hòa nhập vào cơ thể anh. Chính anh ta là thế giới và con người. Trong thơ ông, trăng trở nên vô định, vô hình, mê hoặc, hãi hùng:

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Bạn có thể giúp tôi đưa mặt trăng quay ngược thời gian không?

Trăng ở đây có vui không, thuyền không kịp về với người trên bến? Câu hỏi thể hiện sự lo lắng về một số phận không có tương lai. Han Motu hiểu ra căn bệnh của mình nên mặc cảm vì đời người quá ngắn ngủi, trăng không quay lại đúng lúc, Han Motu đã không đợi được vầng trăng hạnh phúc ấy, một năm sau anh vĩnh biệt cõi đời.

Nhưng hiện tại, người ta sống và mơ mộng:

Giấc mơ của khách đường dài

Áo sơ mi của tôi quá trắng để nhìn thấy;

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Niềm khao khát tình yêu trong tim, nỗi đau và kỷ niệm tình yêu, anh đã viết tất cả những điều đó vào thơ của mình. Và rồi mọi thứ dường như đang trôi trong một giấc mơ và một giấc mơ hy vọng. Chiếc áo trắng cũng là màu nắng của Vader, nhưng nhìn vào nó, tác giả choáng ngợp, ngây ngất trước sự trong trắng, thuần khiết và cao thượng của người tình.

Dường như giữa người đẹp áo trắng ấy và nhà thơ có một khoảng cách nào đó, khiến nhà thơ không khỏi nghi ngờ:

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Bài thơ tả cảnh thực ở Huế – Thành khói sương. Trong làn khói ấy hình như người cũng phai, lẽ nào tình cũng phai? Nhà thơ không viết về cảnh mà chỉ viết về tâm trạng của chính mình, có biết bao cảm xúc trong bài thơ đó. Những cô gái da màu thật kín đáo, ẩn sâu trong màn sương và trở nên xa vời, liệu yêu có làm nên giàu có? Tác giả không dám khẳng định tình cảm của người phụ nữ Huế mà chỉ nói:

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Lời bài hát như một lời nhắc nhở, không thể hiện sự tuyệt vọng hay hy vọng, chỉ là sự thất vọng. Nỗi thất vọng của một trái tim khao khát một tình yêu không bao giờ trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng đáng thương, trái tim khi khép lại vẫn thổn thức. Cả bài thơ mở đầu là “vườn ai xanh như ngọc” nối liền cả bài thơ; tiếp đến “thuyền ai đậu bến sông trăng kia”; kết thúc là “ai biết tình ai đậm đà”? Làm cho ngôi làng thêm khói và huyền bí.

Làng quê là một bức tranh đẹp, qua tâm hồn giàu tưởng tượng, biết quan tâm của nhà thơ, bằng tài lắng nghe khơi gợi, thiên nhiên và lòng người xích lại gần nhau.

Năm tháng trôi qua, mối tình lạnh lùng vẫn nóng bỏng, làm lay động và day dứt trái tim người đọc.

Phân tích thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Ví dụ 2

Nhắc đến Hammect, không thể không nhắc đến bài thơ “Làng này là Vader”. “Làng Đavít” luôn gắn liền với các thi nhân Hàn Quốc, bởi đó là bài thơ vừa tài hoa vừa đẹp; tấm lòng của Hàn Mỹ Tú “chỉ là bày tỏ tình yêu với cô gái Huế, như có người đã nhận xét.”

Làng là bài thơ của nỗi nhớ. Theo các tài liệu về Hàn Mộ Tử, khi còn làm ở sở Đắc Điền Quy Nhơn, Hàn Mộ Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của chủ điền Đắc Điền Quy Nhơn, người làng Huề Vĩ. Tất cả tình cảm của tôi đều gửi vào bộ ảnh gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về ẩn dưỡng ở Huế-vi Đà, han me tu cho rằng mình đã có gia đình.

Ngày mai tôi không còn là nhà thơ nữa

Tôi đã kết hôn và không có ước mơ

Tôi đi tìm Baiya,

Hãy ngồi lên đó và giải phóng tâm hồn thơ mộng của bạn.

Năm 1936, Hàn Mỹ Đồ mắc bệnh phong. Năm 1939, Han Meitu nhận được một tấm bưu thiếp từ Jinju, trong đó có những bức ảnh phong cảnh của Huế, với những dòng sông, con thuyền, bến tàu, ánh trăng và những hàng cao chót vót. Cây trầu được ghép với hàng cúc cung đình để an ủi nhà thơ. Tấm bưu thiếp đánh thức cảm xúc của nhà thơ, và bài thơ hay này ra đời.

Thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn chia làm 3 khổ thơ.

Khổ thơ đầu mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Lời thơ mộc mạc, có chút tiếc nuối nhưng đằng sau đó là lời mời gọi tha thiết du khách hãy trân trọng vẻ đẹp của “đất nước”.

Về thôn vi để “ngắm bình minh mới”. Nhà thơ nhắc đến cây trầu đầu tiên bởi đây là loài cây thanh tao, dáng đẹp, thân thẳng, cành lá xanh tươi, hàm ý trung thành, chính trực. Còn một chi tiết đáng nhớ nữa của hình ảnh cây trầu ở đây, đó là “cây trầu dưới nắng, nắng mới lên”. Từ “nắng” gợi cho ta hình ảnh ánh nắng ban mai tượng trưng cho sức sống và niềm vui tràn ngập khắp mặt đất. Trong nắng mai, thân cây trầu còn đẫm sương đêm tỏa sáng, như muốn vươn mình lên khỏi mặt đất để hấp thụ ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp đã thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thứ ba như reo vui, thể hiện sự ngạc nhiên, khâm phục. Khung cảnh hùng vĩ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. Vườn cây ăn trái được chăm sóc bởi những bàn tay khéo léo, thường xuyên tắm mưa gió, bóng mượt như ngọc bích dưới nắng mai. Những hình ảnh tương phản của tác giả trong đoạn thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói cách miêu tả khu vườn của Hàn Kết Đồ đã đạt đến cảnh giới của một họa sĩ tài ba.

Chỉ với một vài nét tô điểm, bức tranh mực lạnh đã vẽ nên khung cảnh vườn tược của làng quê xứ Huế thân thuộc, bình dị mà thơ mộng. Thật yên bình khi ngắm nhìn những khu vườn Huế dưới “nắng mới”. Nhưng cảnh về đêm bỗng sinh động hơn, khi hiện ra bóng dáng: “Lá trúc che mặt”. Phông chữ thường gợi lên một thẩm mỹ đẹp. Hùng vĩ và quý phái, trong khi lá tre gợi hình dáng thanh mảnh, xinh xắn và tinh tế. Bài thơ này, ngoài ý nghĩa thiết thực: dáng người thấp thoáng sau bụi trúc, khuôn mặt rất nhân hậu, như đang dõi theo khách từ xa, còn có ý nghĩa tượng trưng và cách điệu.

Cảnh và người bổ sung cho nhau: cảnh đẹp nên thơ, người cao thượng nhân hậu. Tất cả điều này tạo ra một thẩm mỹ kín đáo, nhẹ nhàng. Bởi vậy, bài thơ đã làm nổi lên cái hồn của những khu vườn xứ Huế mà chuyên mục này tập trung đề cập.

Tóm lại, Han Meitu đã vẽ nên một bức tranh nông thôn rực rỡ với những chi tiết rất quen thuộc và giản dị, với vẻ đẹp bất ngờ và sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Đoạn thơ khơi gợi một tình cảm quê hương, làng quê Việt Nam sâu đậm trong tâm trí người đọc.

Phần hai thể hiện một thế giới khác của Huế: sông Hương, đặc biệt là vẻ đẹp yên bình và trầm tư của Vida và Huế.

Trở về Vida, Huế, Núi, Sông Hương, Hàn Mị Thư, bạn còn cảm nhận được cái hồn, cái nhịp của Huế. Cảnh xứ Huế được Hán Một Tử miêu tả có sông, có bài, có gió, có mây, có thuyền người đậu bến vắng dưới trăng. Mọi thứ tạo nên một bức tranh yên bình, thơ mộng.

Gió theo gió, mây theo mây

Suối buồn, bông ngô đung đưa.

Hai dòng thơ tả cảnh mà chan chứa tình người. Hai dòng thơ gợi cảm giác chia ly, hoang vắng, tiêu điều. Chẳng lẽ tình đơn phương không gặp ngọt ngào sớm chia lìa, nên cảnh cũng tan vào lòng người mà sầu chia ly? Vì buồn quá nên nhìn đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường một chiều, đoạn đường này đứt quãng, coi như chưa từng gặp nhau. Các từ “gió” và “mây” đã chỉ ra điều này. Ngay cả dòng nước vô hồn cũng trở nên buồn bã với “lớp đệm” mềm mại của hoa ngô

Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả cả nhịp điệu của cảnh. Nhịp điệu uyển chuyển, lơ lửng, nét trầm mặc rất đặc trưng không thể tìm thấy ở đâu khác ở Huế. Hai câu thơ nhịp chậm cũng thể hiện thành công cảm xúc trên.

Viết về Huế phải tả trăng. Mặt trăng được miêu tả bằng bức tranh thủy mặc kì dị của Hàn Quốc tràn ngập vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thật nửa giả:

“Thuyền ai đậu trên sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không? “

Chỉ trong mơ, sông là sông trăng, thuyền chở trăng. Ở đây, Han Motu là một người có đôi mắt rất mơ màng và trống rỗng. Thấy thật thành mộng, thấy mộng thành thấy hạc. Các thánh vịnh về cái chết thật thanh tao! Toàn thân ngọt ngào” (bích khê).

Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp của thiên nhiên. Mặt trăng cũng tượng trưng cho hòa bình và hạnh phúc. Vì vậy, hình ảnh thơ ca của Hanmeitu khơi dậy trong lòng người đọc một niềm tin, một niềm vui, một niềm khao khát về những gì hoàn hảo, thánh thiện và đẹp đẽ nhất. Nhưng bài thơ hiện lên như một bài toán vô vọng. Hai câu tiếp thể hiện niềm mong ước được gặp nhau, đồng thời cũng thể hiện sự khắc khoải. Mô phỏng bị trễ. Phần cuối cùng chỉ có một từ “đúng giờ” và nó nói lên tất cả.

Đoạn ba thể hiện vẻ đẹp kì vĩ của xứ Huế và mối tình mà tác giả hằng khao khát nhưng vuột mất.

“Khách hàng mơ ước, khách hàng phương xa

Áo của tôi trắng quá không nhìn thấy”

Cụm từ “người lữ khách phương xa” không chỉ thể hiện một nỗi nhớ nhung khác lạ mà còn thể hiện một giai đoạn yêu đơn phương đã xa. Bởi vậy tác giả “Giấc mộng khách phương xa” chỉ thấy “quần áo” chứ không thấy “thấy”. Cô gái này là ai? Phải chăng một cô gái xứ Huế nào đó, hay một cô thôn nữ bồng bềnh trong cõi mộng của nhà thơ, đã làm cho tác giả cảm thấy một nỗi buồn thực sự? Tôi chỉ biết đó là một hình ảnh vừa gần gũi, vừa nghiêm túc, vừa xa xăm. Gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, và xa vì khoảng cách thời gian, không gian và sương khói tình yêu không hẹn ước. Màu trắng là màu áo nữ sinh ở Huế, và cũng là màu gợi lên sự trong trắng tinh khôi, hoàn hảo cho cô gái trong mộng của bạn. Màu trắng xóa của cả không gian làm mờ đi tầm nhìn của tác giả. Còn “Taibai”, ẩn mình trong màn sương hư ảo của mây mưa khói lửa của tình yêu thầm kín, lại càng khó nhận ra.

Vậy ngày nay gái làng chơi có yêu mãnh liệt không? “Ai biết tình ai dạt dào?”.

Trong nỗi đau tột cùng, nhà thơ vẫn có những phút giây thảnh thơi nhìn về miền quê nhân hậu, mộng mơ tình tứ, tạo nên một “vạn ngọc bài thơ, rực rỡ ngàn năm”.

Đương nhiên, bài thơ này có xuất xứ cụ thể, nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, ta thấy tác phẩm đã vượt qua giới hạn của tính biểu đạt và đạt đến sự khái quát của nghệ thuật. Đạt đến đỉnh cao của cuộc sống rộng lớn.

Bài thơ Làng Vida này của Hàn Một Tố không chỉ là bài thơ bày tỏ tình cảm với người con gái Huế, lại càng không dành riêng cho một làng quê cụ thể nào, nó là một lời tâm tình chân thành, là những lời trăn trối cuối cùng của nhà thơ Hàn Một Tố về tình yêu , thật đau đớn trong cuộc đời này và sâu thẳm.

Phân tích thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Ví dụ 3

Những bài thơ về xứ Huế mộng mơ của Vida Village đã để lại trong chúng ta nhiều kỉ niệm đẹp, về cảnh sắc xứ Huế hữu tình, về con người xứ Huế và đặc biệt là sự lãng mạn của cuộc sống thi vị. Người – Hàn mặc cho chết.

“Mở cửa ngắm trăng, đóng cửa thắp nến…”

Ai đã từng say trăng như Hàn Motu? “Trăng nằm trên cành liễu-đợi gió đông về thảnh thơi…” (“Thẹn thùng”)- nhà thơ còn nhắc đến thuyền trăng, sông trăng, bến đỗ trên trăng…a chốn mộng mơ, vầng trăng huyền ảo. Bị ám ảnh bởi ánh trăng, Hàn Thạch đã thể hiện tâm hồn “người say trăng” và tình yêu cuộc đời vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của Phong trào thơ mới (1932-1941). Năm 28 tuổi (1922-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và nhiều kịch thơ. Thơ ông dường như chảy ra từ máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Không ai làm thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Chín Suối”), về Huế đẹp và thơ (làng Vida) như Han Mektu.

Đây là Làng Vida trong tập “Những bài thơ điên” xuất bản năm 1940 sau khi nhà thơ qua đời. Đoạn thơ nói hay về xứ Huế, về cảnh đẹp thiên nhiên, về con người xứ Huế, đặc biệt là về những cô gái duyên dáng, đa tình, kiều diễm – tình thơ say đắm, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. . Bài thơ này thể hiện niềm khao khát, khát khao hạnh phúc của một thi nhân có nhiều số phận với những nhân vật vĩ đại.

Câu đầu tiên là một lời mời “ngọt ngào”, vừa vui mừng được gặp mặt, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương đã lỡ đợi bao nhiêu. Giọng thơ dịu dàng: “Sao em không về làng chơi?”. một vài khoảng cách. Khung cảnh xưa cũ của người xưa thấp thoáng trong những vần thơ hay, hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong hồn thơ. Nó liên quan đến cảnh quan sân vườn và ước mơ của người Huế:

“Hãy nhìn mặt trời, mặt trời sẽ ló dạng”

Vườn ai xanh như ngọc

Lá tre che mặt chữ? “.

Cảnh đang nói đến là một buổi bình minh tuyệt đẹp. Nhìn từ xa, thiết tha nhìn ngọn cây trầu, giàn trầu đang tỏa sáng rực rỡ trong nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. Những hàng trầu như đang đón người thân sau bao ngày xa cách. Cây trầu cao chót vót là hình ảnh quen thuộc với bao thế hệ người dân làng Weida. Quên nó xanh như thế nào ở đây. Đứng trước một khu vườn xanh tươi ở làng Weida, nhà thơ đã trầm trồ: “Vườn ai sao xanh sạch như ngọc bích”. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mướt, trẻ trung và bóng bẩy, lung linh trên nền mai hồng trông “mượt” như một viên ngọc bích xanh. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm chỉ mới có được “màu xanh ngọc bích”. Tính chất sôi nổi, tươi trẻ và tràn đầy sức sống. Nói đến mùa xanh ngọc, trước đó (1938) Xuân Diệu đã viết: “Trời đầy lá xanh…” (“Thơ định mệnh”). Dòng chữ “vườn của ai” gây sự ngạc nhiên xen lẫn nghi ngờ của nhiều người. Câu thứ tư tả cô gái trong Vườn xuân: “Lá tre che nét chữ, chữ điền”. Mặt trứng ngỗng, mặt hồng Xinmei. Toàn mặt, đủ mặt, tử tế. “Lá trúc che” là bức tranh truyền thần, làm nổi bật vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng, e ấp, đằm thắm của người con gái xứ Huế. Han Motu đã nhiều lần nói về tre và các cô gái. Bụi trúc như xanh mát, che chở cho mối tình đẹp chớm nở:

“Nghĩ về người ngồi dưới gốc tre

Nghe tinh tế và ngây thơ. “

(Mùa xuân trưởng thành)

Câu thứ ba và câu thứ tư của khổ thơ đầu tả hàng cau, nắng mới, vườn xuân, khóm trúc và cô gái bằng một gam màu nhẹ, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh tu từ và hoán dụ. (xanh như ngọc… đầy mặt). Cảnh vật và con người thôn Vĩ Dạ thật hiền hậu và thân thiện.

Vị Dạ – một ngôi làng nằm ở ngoại ô cố đô Huế bên dòng sông Hương. Có những con thuyền thơ mộng trong đêm đẹp hùng vĩ, có vườn cây bốn mùa xanh tươi trĩu quả. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng sau những hàng trầu, rặng tre, thường đi kèm với tiếng đàn tranh, đàn tranh du dương huyền diệu kèm theo những câu nam ai, nam bình. Làng Vida đẹp và thơ mộng. Han Miketu đã dành tất cả nỗ lực của mình để dành tặng những bài thơ hay nhất cho Vader.

Phần tiếp theo sẽ nói về cảnh sông Yunhe. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Câu 5, 6 là những bức tranh tả gió, mây, sông, và hoa (hoa ngô đồng). Giọng nói nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây lùi xa, như tình thơ tưởng gần mà xa, xa lắm. Hương cháy dìu dịu, trong tâm trí nhà thơ trở nên “sầu trăm ngả”, mang nhiều dấu vết của sự hoang vắng. “Hoa ngô đồng” đung đưa nhẹ nhàng trong gió. Nhịp điệu mềm mại, thơ mộng của sông Hương và núi rừng được miêu tả rất tinh tế. Những ám chỉ đầy quyến rũ gợi lên bao mộng mị vướng bận:

“Gió theo gió, mây theo mây

Suối buồn, bông ngô đung đưa.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ tự hỏi “ai”, hay tự hỏi mình khi thấy hay nhớ đến con thuyền mộng nằm bến Nhạc Giang. Dòng sông quê tôi đã trở thành dòng sông Trăng. Với tình yêu tuyệt vời, Han Ketu đã viết một bài thơ hay về chiếc thuyền dưới trăng trên sông Hương. Nguyễn Công Trứ từng viết: “Gió trăng đầy thuyền”. Hàn Mặc Tử cũng đóng góp một bài thơ trăng đặc sắc cho thơ Việt Nam hiện đại:

“Thuyền ai đậu trên sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không? “

Nhìn trăng và thuyền trên sông, hồn thi nhân bay bổng. Con tàu của tôi hay “con tàu của ai” vừa quen vừa lạ. Chất thơ ảo diệu Đây chính là chất thơ của làng quê này. Những vần thơ khơi gợi hồn thơ, cho ta nhún nhảy trước vẻ đẹp duyên dáng của miền Trung xứ Huế, thể hiện một tình yêu tinh tế, dịu dàng, nên thơ và hơi buồn.

Đoạn ba nói về tình cảm của cô gái Huế với nhà thơ. Thuở ấy, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về những cô gái Tương Hà: “Thiếu nữ Tương Hà da hồng đánh phấn, má hồng thoa son”… Trời mưa to, buổi sáng sương phủ. và chiều.Sương khói của đường thi thường gắn liền với hoài niệm. Sương mù đây mịt mù, mờ áo em trắng không thấy dáng em (ảnh chân dung). Con gái Huế có khí chất trong sáng, trắng như ngọc, đoan trang và duyên dáng. Gần và xa, thực và mộng. Lời thơ ấp úng, trầm tư. Ta biết Hàn Motu đã từng yêu một cô gái Huế tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói đến tình yêu này?

“Khách hàng mơ ước, khách hàng phương xa

Áo của tôi trắng quá

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

“Ta mơ thấy khách phương xa, khách phương xa… biết đâu… ai có”, những ám chỉ ấy đan xen thành một giai điệu sâu lắng, thê lương và mênh mang. Người đọc càng thương cảm cho nhà thơ tài hoa, đa cảm nhưng bất hạnh này, từng đắm say trong nhiều mối tình lãng mạn mà suốt đời phải cô đơn, bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về từ “ai” trong bài thơ này. Từ “ai” xuất hiện 4 lần đều mơ hồ đọng lại trong tâm trí em: “Vườn ai xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng kia?” – “Có biết ai đậm nét ai?”. Người được nhà thơ nhắc đến là người xa quê, nhớ thương da diết. Nhà thơ luôn cảm thấy lạc lõng, chơi vơi với mối tình đơn phương không mộng mơ. Niềm hy vọng mong manh nhưng thiết tha dường như tan biến theo sương khói, tan biến?

Hàn Motu để lại cho tôi một bài thơ tình hay. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và buồn, ngỡ ngàng và dửng dưng… biết bao hình ảnh đẹp và cảm xúc được gom lại trong ba đoạn thơ kết thúc và ngôn từ vẹn toàn. Làng là một bài thơ tình tuyệt vời. Màu xanh ngọc bích của vườn Ai, con đò của Ai trên sông Trăng, tà áo trắng em như dẫn hồn anh về nơi khói bụi làng đêm xa:

“Ở đây có sương mù”

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Mô hình 4

Hàn Mai Tử là một nhà thơ tài hoa, bí ẩn và phức tạp bậc nhất trong thi ca Việt Nam. Thơ ông vừa trong trẻo, trong sáng lại vừa ma mị, huyền bí, đó là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của thơ Hàn Kết Đồ. Thơ Điên (sau đổi thành Đau thương) là một nét riêng của phong cách thơ ấy. Có thể nói “Làng Vida” là bài thơ trong sáng nhất, trong sáng nhất trong tập thơ của ông.

“Làng Weida” được sáng tác năm 1938. Tác phẩm chia làm ba phần, tương ứng với ba tiểu mục, tiểu mục thứ nhất miêu tả cảnh làng quê lộng lẫy xinh đẹp dưới ánh nắng ban mai, tiểu cảnh thứ hai là cảnh sông nước đêm trăng. Khổ thơ cuối là hình bóng của một lữ khách ở một nơi mù sương và huyền bí.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi chân tình, trìu mến:

Tại sao bạn không quay lại và chơi với cây cung?

Thể thơ bảy chữ có sáu vần bằng nhau, gợi lên sự uyển chuyển, mềm mại của giọng điệu xứ Huế. Vậy đối tượng của câu hỏi này là ai? Đó là Jinju, cô gái mà Han Motu phải lòng, giọng điệu của cô ấy lúc đó có chút trách móc, có chút ủ rũ, đồng thời cũng là một lời mời vô cùng nồng nhiệt. Nhưng đây cũng có thể là tác giả nhân bản chính mình, ngụ ý không trách được chính mình. Anh không về vì đường xa, vì anh nhận ra rằng, bây giờ hay mai sau, anh không thể nào quay lại nơi anh gắn bó, đó là quê hương. Ba câu tiếp theo cảnh làng quê đẹp lạ thường, óng ả dưới ánh nắng:

Ngước lên mặt trời, mặt trời chói chang

Vườn ai xanh như ngọc

Lá tre che mặt chữ

Ấn tượng đầu tiên là vẻ đẹp của mặt trời, mặt trời được lặp lại hai lần trong bài thơ tạo cảm giác ánh sáng trong trẻo, thuần khiết tràn ngập cả không gian. Hơn nữa, cây trầu bà một nắng rất quen thuộc và gần gũi với người dân Việt Nam. Hàng cau vươn mình đón ánh sáng tự nhiên, tia nắng tinh khiết đầu tiên trong ngày. Dưới ánh nắng của những hàng cau, cảnh đẹp hiện ra trước mắt, màu xanh ngọc của khu vườn bao trùm cả không gian. Từng câu, từng chữ trong tiếng Hàn đều giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp của khu vườn ấy. Từ “mướt” gợi sự trẻ trung, căng mọng của cây cối khi đắm mình trong làn sương trong ánh ban mai. Hình ảnh tương phản “xanh như ngọc” cho người ta cảm nhận về sự trong lành, trong trẻo, mát lành của cảnh vật. Để hoàn thiện bức tranh thiên nhiên, con người xuất hiện ở phần cuối của phần. Đằng sau lớp lá trúc mềm mại là một mặt che chữ. Phải chăng đó là khuôn mặt của một người phụ nữ Huế, khuôn mặt đó có nét duyên dáng và xinh đẹp. Thiên nhiên và con mắt hòa quyện hài hòa, tạo nên một cảnh đẹp, đồng thời khơi dậy niềm khao khát được trở về làng của Hàn Kết Đồ.

Chữ văn của Han Mektu tiếp tục đưa người đọc đến với một vẻ đẹp khác của xứ Huế, đó là vẻ đẹp mộng mơ của đêm trăng:

Gió theo gió, mây theo mây

Dòng hoa ngô đồng buồn

Cảnh trời chia đôi, mỗi người đều có sự tồn tại của riêng mình. Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây, 4/3 nhịp thơ kết hợp với dấu phẩy ở dạng ngăn cách, ngăn cách hoàn toàn sự vật, hiện tượng. Bề ngoài thì có vẻ phi lý và không phù hợp với logic tự nhiên, nhưng về mặt logic thì tâm trạng của nhà thơ lại hoàn toàn hợp lý. Nhìn ra xung quanh là cảnh một dòng sông “buồn” lặng lẽ chảy, một cuộc sống tẻ nhạt, hiu quạnh. Không chỉ là nỗi sầu của dòng sông mà còn là nỗi sầu của tâm hồn, tâm trạng con người. Dường như mọi thứ đã rời xa nhà thơ, anh nhìn trăng đi đến lưu luyến cuối cùng, mong được chia sẻ:

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Đêm nay tôi có thể mang trăng trở lại

Trong thơ Hàn, trăng là người bạn, người tri kỷ. Vì vậy, khi mọi thứ đã không còn, nó tìm nơi rúc cuối cùng là ánh trăng, trăng trông thật đẹp, thật to, đó là dòng sông trăng rằm, chiếc thuyền chở trăng. Ở đây vầng trăng là hiện thân của cái đẹp của thế gian, của cuộc đời ha mặc tuế khát khao có được. Câu hỏi tu từ: “Đêm nay liệu có đưa trăng về quá khứ” hàm chứa sự hoang mang, lo lắng về thời gian. Đêm dài đêm ngắn, số tiền đủ để trang trải cuộc sống sung túc. Nỗi lo lắng này phản ánh tình yêu cuộc sống rực lửa và nồng nàn của Han Ketu.

Ở khổ thơ cuối, con người dường như không còn ở cõi thực mà lạc vào cõi hư ảo, huyền bí: “Mơ người lạ xa/ Áo em trắng quá không thấy/ Đây là Lu là một hình bóng mờ/ Biết đâu tình ai có nhiều”. Hình bóng mỹ nhân có tồn tại, nhưng chỉ là trong mộng, ta nắm không được, nắm không được. Màu trắng được khoác lên bởi cực tả “Đài Bạch” khiến cô gái mất hết đường nét, chỉ còn lại hư ảo hư ảo, để lại trong lòng thi nhân một sự mất mát lớn. Anh ta ra ngoài để tìm kiếm sự giải thoát khỏi sự cô đơn của mình, nhưng những gì anh ta nhận được là sự thất vọng, vì vậy anh ta phải quay trở lại thế giới này. Nhưng ở đây có một thứ hạnh phúc mơ hồ, một “hình ảnh” bị hư hỏng, thiếu thốn tình cảm con người, khát khao tìm hơi ấm, những sợi dây tình cảm sẻ chia nhưng đều vô tình bị cắt đứt. Câu hỏi tu từ “Ai biết giàu tình ai” chứa đựng hai đại từ mang đến những cách hiểu khác nhau: Ai có thể hiểu được liệu người con gái mà Hàn Mặc Đồ thích có biết tình cảm của Hàn Mặc Đồ hay không? Ai cũng có thể hiểu người trong cuộc có biết người ngoài có dành tình cảm cho mình hay không. Cô đơn và trống vắng khơi dậy niềm khao khát yêu thương trong những trái tim lạnh lùng và rực lửa. Đối với anh, cô gái ấy không chỉ là một cô gái cụ thể, mà là cả một cuộc đời, một cuộc sống mà anh hằng mong ước được là một phần trong đó. Bài thơ thể hiện một con người yêu người, yêu đời, thiết tha.

Bài thơ sử dụng linh hoạt các hình ảnh tương phản, ngôn ngữ cực tả để miêu tả một khung cảnh đồng nội đẹp, giản dị mà huyền bí. Nhịp điệu thay đổi linh hoạt diễn tả tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm và đầy tính biểu tượng.

Han Meiktu đã dùng bài thơ “Làng Vida” để miêu tả một phong cảnh xứ Huế lung linh, đẹp đẽ vô cùng, có cảnh sắc khác người. Đằng sau bức tranh là tình yêu cuộc sống và khát vọng giao lưu, hội nhập mãnh liệt. Đồng thời ta cũng cảm nhận được nỗi cô đơn, bất hạnh của con người tài hoa này.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 5

Hàn Mai Tử là một nhà thơ tài hoa, bí ẩn và phức tạp bậc nhất trong thi ca Việt Nam. Thơ ông vừa trong trẻo, trong sáng lại vừa ma mị, huyền bí, đó là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của thơ Hàn Kết Đồ. Ngôi làng này là một trong những kiệt tác của Han Ketu.

Bài thơ Here, Weida Village, viết năm 1938, ban đầu có tên là “Here Weida Village”, sau này được đổi tên. Tác phẩm được in trong tập “Thơ Điên” (sau đổi thành tập “Nỗi Đau”). Ngôi làng Vida này được lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với cô gái xứ Huế mộng mơ tên là Kim Cúc. Cô là con gái của một vị quan lớn, một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng và có phong thái tao nhã. Han Motu phải lòng cô gái thầm kín và chỉ dám đứng nhìn từ xa. Tình yêu chân thành ấy đã được nhà thơ trân trọng gửi gắm trong tập “Gái quê”. Sau này, Hoàng Cúc theo cha về Đây thôn Vĩ Dạ, Huế, cha buồn và mắc bệnh phong nên càng khổ.

Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Điểm (anh họ của Hoàng Cúc) biết được nỗi lòng này nên đã viết thư cho Huệ, đề nghị chị viết thư thăm hỏi, động viên linh hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm hỏi, tôi gửi ảnh phong cảnh cỡ tấm danh thiếp. Có mây, nước, cô gái chèo thuyền qua biển, vài khu rừng trúc, và ánh sáng trắng hoặc ánh nắng trên mặt nước Về. Tôi viết mấy lời chúc đằng sau bức ảnh và xin trả lại. Một thời gian sau, tôi nhận được bài thơ này từ Làng Vida và một bài thơ khác do ngâm thơ gửi đến. Chính tấm bưu ảnh chân thành này đã kèm theo bài Viết về mối tình thầm kín của Hàn Kết Đồ , ông đã viết nên một bài thơ giàu cảm xúc, giàu hình ảnh và nỗi buồn của tâm hồn thi nhân.

Toàn bài thơ có ba đoạn, mỗi đoạn là một bức tranh, nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi đoạn là một câu tứ tuyệt.

Mở đầu là: “Sao em không về làng chơi”. Đây có thể là một bức tranh mực lạnh trên tấm bưu thiếp lặp lại lời chúc mừng hoa cúc của hoàng gia, hoặc nó có thể là một tấm bưu thiếp gợi lại những ký ức nông thôn. Tính chất hình ảnh của bốn câu thơ này (câu một) như một bức tranh có ba chiều: chiều rộng, chiều cao và một chiều thứ sáu. Nỗi nhớ giúp tác giả tưởng tượng ra khung cảnh sống động trước mắt.

Những bức vẽ về đất nước tuyệt vời phác thảo một số nét đẹp. Ánh nắng ban mai chiếu vào cây trầu, “nắng mới” đem đến cho người ta cảm giác trong lành, yên bình, hàng cây trầu thẳng tắp, thẳng tắp, hình ảnh rất đỗi thân quen, nét đặc trưng của thôn Vĩ:

“Vườn ai xanh như ngọc”

Vườn cây đầu làng xum xuê (ẩm ướt), một loại xanh mà nhà thơ so sánh: “xanh như ngọc”. Trong lời kể của nhà thơ, cảnh vật và con người bổ sung cho nhau, dịu dàng như nước. Ẩn sau rừng trúc là một khuôn mặt hiền từ nhân hậu:

“Lá tre che mặt”.

Ở bốn câu tiếp theo của khổ thơ thứ hai, nhà thơ tìm về dòng kí ức u ám liên quan đến dòng sông Hương thơ mộng, êm đềm. Dòng sông có gió, có mây, có nước, có thuyền, có ánh trăng. Sông Hương phần lớn đều rất hiền hòa, nước lững lờ trôi giữa đôi bờ mờ sương, như mang theo một nỗi “sầu muộn”.

“Gió theo gió, mây theo mây

Nước buồn, bông ngô đung đưa

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không? …

Nhịp toàn bài thơ mềm mại, chậm rãi uyển chuyển, cảnh đoạn trước trong sáng, đến đoạn này chuyển sang buồn: gió mây chẳng theo nhau, gió mãi động , và đám mây bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn xa xăm. . Dòng nước chầm chậm, vắng vẻ và “đìu hiu”, hai bên bờ sông Hương chảy qua làng là những vườn ngô, những bông ngô đồng bị gió thổi vi vu, thật là một khung cảnh tĩnh lặng và gợi cảm. Đây là hình ảnh đầy tâm hồn bay bổng của nhà thơ.

Hình ảnh “Sông trăng” là một bài thơ rất mới. Trăng sông Hương như mộng, “Sông trăng” và thuyền “Zaiyue” bổ sung cho nhau rực rỡ. Có thể nói, chưa có nhà thơ nào miêu tả vẻ đẹp hư ảo của sông Tương Giang như Hàn Motu. Trong hoài niệm đẹp như mơ của nhà thơ, Châu Nguyệt đã trở thành một vật có linh hồn.

Đoạn ba nối tiếp ký ức về Huế:

Giấc mơ của khách đường dài

Áo của tôi trắng quá

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không? …

Trong kí ức về Huế, hình ảnh những cô gái Huế và thôn Ngụy càng hiện lên sống động, trở thành điểm nhấn của cả bài thơ. Phong cách cis-nữ tính của Hàn Motu tinh quái, thực sự giữa cô gái này và nhà thơ có một khoảng cách về không gian và thời gian, giữa hai người không có cam kết hay hoài niệm, chỉ là vấn đề thời gian. “Lữ khách phương xa”. Hình ảnh thiếu nữ trở nên xa xăm. Câu thơ trở nên đa nghĩa, phủ một lớp sương mờ lên kí ức, để rồi “áo em trắng quá không thấy” nhưng trong tâm trí nhà thơ, dù chỉ là kỉ niệm của một thời “em”. vẫn là một nhân vật thân yêu.

Hình ảnh người thân xa cách chìm trong “làn khói” nhân gian, cuối bài thơ là một câu hỏi:

“Ai biết tình ai giàu?…”

Phần tư thứ hai đầy quan niệm nghệ thuật. “Ai”, “ai” là anh hay em, không phải cả hai, nhà thơ tự hỏi mình, và cũng hỏi “họ” về mối tình đơn phương không tên. Giờ đây giữa hai người có một “mờ sương” về thời gian và không gian, làm sao biết được tình yêu này bền chặt hay yếu ớt. Đây có thể coi là một bài thơ suy tư, ẩn chứa nơi sâu thẳm nhất của trái tim nhà thơ, tình yêu cuộc sống, ta thấy thấp thoáng câu chuyện tình dang dở giữa nhà thơ và cô gái thôn Vida. Tình yêu đơn phương này không hề phai nhạt theo năm tháng. Bởi vậy, khi chỉ có một tấm bưu ảnh và vài câu chúc từ xứ Huế đã gợi lên trong lòng thi nhân cả một thiên đường kỷ niệm. Có người cho rằng mỗi câu có hai giọng. Hai câu trên của một người, hai câu dưới của một người. Trên thực tế, rất khó để phân biệt. Ví dụ câu: “Sao anh không về làng chơi?”. Đây là lời trách móc hay lời mời gọi của “nhà thơ” hay “ông già”? Nhưng điều chắc chắn là lời chúc mừng (trên bưu thiếp) mà đối phương nhận được thật ngọt ngào. Vì vậy có thể nói đây là một bản đồ quan niệm nghệ thuật. Một tình yêu gieo vào lòng thi nhân bao nỗi nhớ mong, nhớ nhung.

Về nghệ thuật, đây là bài thơ có những nét nghệ thuật đặc sắc về bút pháp trữ tình, trữ tình, trữ tình.

Có thể nói thơ là một bức tranh đẹp. Hình ảnh cây cối trong vườn, hình ảnh dòng sông êm đềm êm đềm, hình ảnh ước lệ nghệ thuật về hình bóng người con gái Huế. Về thời gian, khổ thứ nhất là cảnh sáng, khổ thứ hai là cảnh đêm, khổ thứ ba là bất định. Về không gian, đoạn đầu là vườn cây, hai bến sông Hương có hai bờ là thuyền và trăng, nhưng đến đoạn thứ ba thì không gian ít hoặc khó xác định. Nhưng có thể thấy ở đây nhà thơ muốn nói sâu hơn về mối tình không trọn vẹn với cô thôn nữ lớn. Đối tượng có thể nhận diện “lữ khách phương xa” chính là “em”. Đây không phải là bức tranh tả cảnh nên nhà thơ không tả theo trình tự nào. Vì là “hình tượng ước lệ nghệ thuật”, tả cảnh và bộc lộ cảm xúc nên thứ tự bài thơ chính là dòng cảm xúc của tác giả, cách sắp xếp này làm tăng hiệu quả biểu đạt của bài thơ.

Trong bài thơ, tác giả thể hiện điều đó bằng cách phiên âm một số từ: Trầu cau rực rỡ, nắng mới lên…/ Gió cuốn theo chiều mây cuộn, mây thảnh thơi…/ Giấc mơ của khách phương xa, khách phương xa../ Có ai biết chữ đậm không? . Đây chính là biện pháp điệp ngữ, điệp ngữ ta thường gặp trong thơ ca. Nhưng trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật này với hiệu quả thẩm mỹ cao, bởi những từ ngữ đó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người. Đặc biệt chữ “thương” trong ca dao xứ Huế làm tôi nhớ đến người thân.

Cuộc đời Hán Sở là một bi kịch éo le nhưng nhà thơ đã tạo nên những tác phẩm văn học lay động tâm hồn để đời. Bài thơ có kết cấu độc đáo, lấy cảnh làm ẩn dụ cho tình, làm dịu lòng người không khuất phục.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 6

Một nhà thơ Việt Nam từng đến hai thành phố và đặt tên đường là Hàn Mặc Tử. Anh là một trong những hiện tượng lạ lùng nhất của phong trào thơ mới, có người biên tập nhận xét: “Không có trước, không có sau, giống như ngôi sao lê cái đuôi chói lọi trên bầu trời Việt Nam, rực rỡ của anh”. Nhắc đến Hàn Mã Tử, người ta sẽ không quên vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa xứ Huế được miêu tả trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đây là một bức tranh đẹp về sự chung sống hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hiện thực và hư ảo, đồng thời cũng là tiếng nói tình yêu thiết tha của nhà thơ đối với cuộc sống.

Bài thơ Here, Weida Village, viết năm 1938, ban đầu có tên là “Here Weida Village”, sau này được đổi tên. Tác phẩm được in trong tập “Thơ Điên” (sau đổi thành tập “Nỗi Đau”). Ngôi làng Vida này được lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với cô gái xứ Huế mộng mơ tên là Kim Cúc. Cô là con gái của một vị quan lớn, một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng và có phong thái tao nhã. Han Motu phải lòng cô gái thầm kín và chỉ dám đứng nhìn từ xa. Tình yêu chân thành ấy đã được nhà thơ trân trọng gửi gắm trong tập “Gái quê”. Sau đó, Hoàng Cúc theo cha về Đây thôn Vĩ Dạ, Huế, cha buồn và mắc bệnh phong, càng đau đớn hơn. Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Điểm (anh họ của Hoàng Cúc) biết được tình cảm này nên đã viết thư cho Huệ đề nghị cô viết thư để thăm hỏi, động viên một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm hỏi, tôi gửi ảnh phong cảnh cỡ tấm danh thiếp. Có mây, nước, cô gái chèo thuyền qua biển, vài khu rừng trúc, và ánh sáng trắng hoặc ánh nắng trên mặt nước Về. Tôi viết mấy lời chúc đằng sau bức ảnh và xin trả lại. Một thời gian sau, tôi nhận được bài thơ này từ Làng Vida và một bài thơ khác do ngâm thơ gửi đến. Chính tấm bưu ảnh chân thành này đã kèm theo bài Viết về mối tình thầm kín của Hàn Kết Đồ , ông đã viết nên một bài thơ giàu cảm xúc, giàu hình ảnh và nỗi buồn của tâm hồn thi nhân.

Đây thôn Vĩ Dạ là một ngôi làng nhỏ nằm bên bờ sông Hương ở Huế. Nơi đây có vườn cảnh đẹp, cây cảnh, cây ăn trái rất nổi tiếng đã trở thành nguồn cảm hứng cho thi nhân, tiêu biểu có nhà thơ Bích Khê: “Đêm tuyệt làng! Làng Vida/Cầu tre bờ sông không lo say”. Hay một bài thơ miêu tả vẻ đẹp của nàng tiên hạt ngao giữa trời đêm: “Dưới trăng tre tan vào xuân/ Hoa vani mơ…”

Mở đầu bài thơ “Làng Đây” là một đoạn thơ dưới hình thức một câu hỏi tu từ mang nhiều sắc thái và ý nghĩa khác nhau: “Sao em không về chơi thôn vi?” Làng để xem? Chính Motu đã tự trách mình sao không về làng chơi, câu “về chơi đi” chân thành, thật thà và rất nhân hậu. Phần mở đầu của Han Ketu rất đặc biệt, anh ấy biết cách đặt tăng âm ở chữ “không” thứ ba, đặc biệt dám phá luật, anh ta không thể đặt tăng cường ở chữ “khoảng” thứ tư, bởi vì nó giống như nếu nó có đến Đó là phong vũ biểu, bởi vì theo thứ tự “hai bốn sáu giờ.” Nếu câu mở đầu là “Sao em không về thăm quê?” hay “Sao em không về chơi?” thì nó đã mang một thể thơ khác, không còn là cái tôi riêng của Han Mektu nữa. Trong bài thơ “Sự Tích Hoàng Hạc Xưa” của ông, hình như ông đã thôi đứt gánh giữa đường. Nhờ các EQ thứ nhất, thứ hai và thứ sáu, động lực của loạt EQ tiếp theo trước khi kết thúc bằng thanh cao vút ở từ “vi” là hoàn toàn đáng kinh ngạc. Những câu thơ không khỏi gợi cho người ta nhiều suy tư, trăn trở của một nhà thơ “có bạc mệnh”.

Đằng sau nhan đề mở đầu là bức tranh miêu tả vẻ đẹp bình dị trong nắng mai: “Trông nắng mới lên/ Vườn ai xanh như ngọc bích”. Ấn tượng độc đáo là cây cau ưa nắng, trong vườn cây cau là cây cao nhất, cây đón ánh bình minh đầu tiên. “Nắng mới” chỉ ánh nắng trong veo buổi ban mai, từ mới nêu bật sự trong trẻo, tinh khiết. Vẫn là nắng ban ngày, nhưng trong mắt thi nhân, nó thật đẹp, thật yên bình và thật ấm áp. Vườn Ai gợi cảm giác mộng mơ, mông lung qua cách sử dụng đại từ tầm thường “ai”, khơi gợi sự tò mò với vẻ đẹp bí ẩn không thể sở hữu. Tính từ “chạy” chỉ màu xanh dịu dàng của cây cối, tràn đầy sức sống của mùa xuân, được ví như màu xanh của ngọc bích – màu xanh dịu dàng, có sức quyến rũ đặc biệt. Trong con mắt nhà thơ, khu vườn buổi sáng có vẻ đẹp lung linh, huyền ảo tắm mình trong sương đêm, buổi sáng tràn đầy nắng mới. Đó là một vẻ đẹp tao nhã, một vẻ đẹp trong sáng của chốn đồng nội yên tĩnh, làm thi nhân kinh ngạc, say mê.

Trong khung cảnh thiên nhiên, con người bỗng hiện lên: “Lá tre che phông mặt”. Phải chăng phông chữ ở đây là khuôn mặt xinh đẹp e thẹn của cô thiếu nữ lấp ló sau rặng tre, hay là cách diễn đạt cách điệu của nhà thơ về vẻ đẹp của trái tim thương người Huế cần cù, liêm khiết, cẩn trọng và nhân hậu? Dù thế nào ta cũng thấy được vẻ đẹp của những con người hiện lên sau câu thơ. Đó là một hình ảnh hư cấu mang lại cho nó một thẩm mỹ đẹp như mơ. Nhà thơ đã hơn một lần nhắc đến hình ảnh cô gái và khóm trúc trong bài thơ: “Nghĩ người ngồi dưới gốc tre/ Nghe tiếng tinh tế hồn nhiên”. Vì vậy, ông đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp của thiên nhiên trong ánh ban mai với vẻ duyên dáng, vẻ đẹp của thế giới con người bằng bút pháp thông thường tượng trưng cho nhà thơ, thể hiện chiều sâu của trái tim yêu cuộc sống và thiên nhiên. Thậm chí vặn vẹo cơ thể do bệnh tật.

Mạch thơ như bị đứt đoạn, nhà thơ đột ngột chuyển cảnh từ bình minh sang đêm trăng thơ mộng. Đây là nét độc đáo trong tư duy thơ của Hàn Kết Đồ, bề ngoài có vẻ rời rạc, nhưng logic của mạch cảm xúc ẩn sâu trong lòng. Nhà thơ đang rạo rực niềm mong ngày về quê chơi bỗng trở nên hoang vắng, hiu quạnh, như vừa tỉnh giấc mơ, trở về với thực tại phũ phàng do định mệnh và cội rễ gây ra. Lúc đó tôi bị bệnh nan y. Hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu chia ly, buồn bã của nhà thơ:

“Gió đi theo gió, gió cuốn theo gió, mây cuốn theo gió

Nước mềm và mềm.

Mây và gió nên là một cặp, gió thổi mây bay đi, nhưng Hàn Mai Đồ lại thấy nó tách khỏi gió và gió ở đây, mây và mây tạo thành một bước đột phá nghệ thuật của Xiao và Dao. Nhịp 4/3 biểu thị sự chia ly đôi ngả. Cái nhìn và sự quan sát của nhà thơ là từ cao xuống thấp, từ xa đến gần. Nhà thơ lia ống kính tâm trí từ cảnh trên trời xuống dòng nước chầm chậm chảy dưới chân. Hình ảnh bông ngô đồng lay nhẹ và phản ứng nhẹ nhàng với nước. Nhà thơ làm cho nước buồn bằng nghệ thuật nhân hóa. Ở đây có bút pháp để tả tình, có bức tranh mực lạnh để tả nỗi cô đơn, hoang vắng, để khơi dậy tâm trạng buồn bã, cô quạnh của chính tôi. , Nỗi u sầu của nhà thơ trở thành thế này. Như Nguyễn Đức từng nói: “Cảnh buồn bao giờ vui”. Vì vậy, hai câu kết lần lượt chia hình ảnh thiên nhiên thành hai phần để diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ.

Khi nước sầu hóa thành sông trăng tròn, mạch cảm xúc lại chuyển mạch:

“Thuyền ai đậu trên sông Trăng

Đêm nay có thể đưa trăng về quá khứ”

Trăng, gió, mây là nguồn cảm hứng của biết bao thế hệ thi nhân, chẳng hạn, trong bài thơ “Sầu trăng”, Xuân Điệp đã viết: “Bay về theo gió, thi nhân nghĩ/ thương nỗi buồn một người ai mà không biết đứng trên trăng./ Trăng rộng sáng ngời, gió lộng/ Trời xanh cao nguyên, đất bằng phẳng”. Trong thơ Hàn, ta thấy ông luôn mang theo ánh trăng, trăng là linh hồn trong tâm hồn, là nơi trú ngụ cuối cùng của linh hồn thi nhân. Thoát khỏi thực tế của bệnh tật. Trong thơ ông có rất nhiều hình ảnh đẹp, đặc sắc và bất hủ về ánh trăng: “Trăng gác cành liễu/ Đợi gió đông về rồi tản mác” hay “Trăng sáng đầy sông” trong các bài thơ ở đây , Làng Weida cũng là một dòng sông trăng, ” “Ai Zhou” dừng lại trên đó, ánh trăng tan ra khiến ánh trăng đầy nước lung linh, lấp lánh. Cái lạ của dòng này không chỉ ở chỗ nó là dòng siêu thực, cái lạ ở chỗ nó siêu thực theo một cách rất thực, trong khuôn khổ của Motu. Ở câu hỏi tu từ, hai câu tác giả buồn bực. Chữ “kịp” là cuộc chạy đua giữa bệnh nhân và cuộc đời, còn “đêm nay” là một đêm sao ngắn ngủi. Ta cảm nhận rằng, sâu thẳm trong hồn thơ Trung Quốc luôn có một nỗi niềm tự ti khác hẳn với ý tưởng về cái chết của Hoàng đế Xuân. Ông hoàng thơ tình luôn nhìn thấy cái chết ở cuối con đường nên phải tận dụng tối đa để sống có ích, nghĩa là sống từng ngày cho trọn vẹn và vui tươi, còn Hàn thi sĩ – những người không may mắn mắc phải căn bệnh hủi đáng sợ. Nhìn cái chết đến gần, với anh, sống là hạnh phúc. Nếu nói con tàu chở người và hàng hóa, thì với nhà thơ, đó là chở trăng – một hiện tượng tự nhiên trên bầu trời. Đó là sự mờ ảo xen lẫn hiện thực, cho thấy nỗi khắc khoải tuyệt vọng của nhà thơ, sự thương cảm, thương tiếc cho số phận của một nhà thơ tài hoa nhưng lại gặp phải bi kịch của cuộc đời. Bạn càng yêu đời bao nhiêu, bạn sẽ càng kiệt sức vì đau đớn bấy nhiêu. Như l.tolstoi đã từng nói: “Cái khó nhất là yêu những đau khổ trong cuộc đời”.

Thơ của Miketu Han luôn đan xen hài hòa giữa hiện thực và mộng tưởng. Hiện thực quá phũ phàng, nhà thơ trở về với giấc mộng đẹp để an ủi tâm hồn, nhưng giấc mộng dù dài bao lâu cũng phải tỉnh giấc, nhà thơ lại rơi vào ảo mộng của thực tại:

“Khách hàng mơ ước, khách hàng phương xa

Áo của tôi trắng quá

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Xem Thêm : Soạn bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Mộng là trạng thái vô thức mà con người đắm chìm trong giấc mộng, từ “lữ khách” được lặp lại hai lần ở hai trạng thái cảm xúc. Lần đầu mơ thấy khách phương xa, lần sau là hiện thực, càng mơ khách đường càng xa. Tác giả mơ thấy bóng một người phụ nữ đẹp trong hư ảo. Không thể thoát ra khỏi giấc mơ, tác giả dùng hình ảnh hiện thực để đưa về hiện tại “Áo em trắng quá nhìn không thấy” Đó là áo em, trắng trong và tinh khôi, màu trắng vô cùng của nhà thơ. Sự kỳ quặc, bất ngờ nên nhấn chìm “họ” vào cõi ảo. Câu thơ thứ ba xuất hiện càng làm rõ nghĩa của câu thứ hai. Thời tiết Huế nắng, mưa và sương mù. Sương mờ bóng hình “em”, màu trắng của tà áo làm cho bóng người đẹp lúc gần lúc xa, vừa thực vừa ảo. Đó là một ảo mộng xa vời với thực tế. Dường như điều đó càng làm cho tâm trạng nhà thơ thêm bồn chồn, thể hiện ở việc lặp đi lặp lại đại từ tầm thường ai ở câu cuối: “ai biết… ai có…”, nhấn mạnh tâm trạng khao khát, tội nghiệp của con người. Tâm hồn khao khát được sống, khao khát được yêu, được yêu say đắm cô gái Huế mang tên một loài hoa. Bài thơ có hai ý: một là tình người ở xứ Huế xa xôi dày đặc như sương mù, làm sao biết tan. Thứ hai, làm thế nào để cô gái biết rằng nhà thơ nhớ cô ấy. Câu hỏi này thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đáu của một tâm hồn thi sĩ tài hoa mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi kịch.

Bài thơ “Đây thôn Weida” miêu tả cảnh ngụ ngôn theo phong cách nghệ thuật tượng trưng, ​​thể hiện tiếng nói tâm tình của người trữ tình bằng ngôn từ trong sáng, chắt lọc, hình ảnh thơ độc đáo, sử dụng phép điệp ngữ. Ông xứng đáng là một thiên tài kiệt xuất trong các nhà thơ mới, có một hồn thơ đau đớn như một người bệnh nhưng vẫn khát khao sống mãnh liệt, tạo nên một hồn thơ độc đáo trong văn giới Việt Nam, giống như nghĩa của Nguyễn. Viết triển lãm cho các nhà thơ Hàn Quốc: “Hỡi Thần chết, hồn thơ chỉ có một/ Hành tinh quá nhỏ cho hai người”

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Mô hình 7

Hàn Motu là ngôi sao lạ trên trời, trong thơ mới có muôn ngàn vì sao. Những năm ngắn ngủi và đau khổ của Hàn Quốc trên trái đất là những năm sáng tạo và thăng hoa. Thơ ông vừa chứa đựng tình yêu thiết tha với cuộc sống, vừa chứa đựng nỗi tuyệt vọng đau đớn. Một bài thơ để lại của nhà thơ, “Đây Làng” là một bài thơ khá độc đáo. Như một con đường thuần khiết không bóng ma, không ma mị, không đổ máu, không rên rỉ uốn éo nhưng tràn đầy tình yêu cuộc sống, bức tranh thật đẹp và kỳ ảo. Phải chăng vì thế mà bài thơ này sẽ còn mãi trong lòng người yêu thơ?

Ngôi làng này được lấy cảm hứng từ câu chuyện có thật của tác giả với cô gái tên Hoàng Thị Kim Cúc. Hai người gặp nhau khi cùng làm việc tại Sở Đốc chính tỉnh Bình Định. Vào thời điểm đó, Han Motu đã phải lòng con gái của chủ nhân Jinju. Khi nhà thơ trở lại Quy Nhơn, Jin Ju theo cha trở lại Huế. Mối tình thầm kín của nhà thơ từ đó rơi vào tình thế tuyệt vọng. Khi biết tin Han Motu bị bệnh, Kim Kuk đã gửi cho nhà thơ duyên dáng một tấm bưu thiếp với khung cảnh của Huế và lời chúc sức khỏe. Sau khi Han Motu nhận được tấm bưu thiếp, anh ấy đã vô cùng xúc động và viết bài thơ “Weida This Village”. Có lẽ tấm bưu thiếp đó là phương tiện để đánh thức tiếng nói tiềm ẩn của nhà thơ, và tiếng gõ cửa tràn ngập niềm khao khát sống và sự gắn bó với cuộc sống của Han Mektu. Bài thơ này được in trong tập “Mad Poems”, sau đổi thành “Nỗi đau”, là một tập thơ có hai cái tên tưởng như đối lập nhưng lại rất hòa hợp. Vì điên dại hay đau đớn cũng bắt nguồn từ tình yêu mãnh liệt với cuộc sống, từ nỗi đau khi gặp phải “chuyện trần gian”. Đó là hai cảm xúc của một trái tim để sống một cuộc sống trọn vẹn. Cả bài thơ có ba đoạn, mỗi đoạn như một cảnh, nhìn thoáng qua khó thấy được mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Nhưng đi sâu hơn vào mạch ngầm của bài thơ, người đọc phát hiện ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hai điều này. Nó nằm trong trạng thái cảm xúc của nhà thơ, nó như một dòng chảy ngắt quãng, như một cuộc hành trình từ quá khứ đến tương lai, với nỗi băn khoăn không nguôi cho tình yêu cuộc đời.

Mở đầu bài thơ là đoạn tả cảnh vườn Huế thật tinh tế và đẹp đẽ. Khổ thơ đầu là một câu hỏi tu từ, dường như chứa đựng biết bao ý nghĩa, biết bao cảm xúc xa vời:

Sao em không về làng chơi?

Người đọc chắc chắn sẽ nhận ra tính phức điệu của câu thơ này. Người vào đây hỏi là một cô gái xứ Huế, muốn nhắn gửi với chàng trai xa xứ Huế đã lâu một chút trách móc, một chút mời trở lại thăm Vida xưa. ? Nhưng cũng có thể đó là tiếng người ở xa tự vấn lòng: Sao không về Làng Gạo, bao giờ về lại Làng Gạo? Tất nhiên, đằng nào cũng có lý do của nó. Nhưng chúng ta đều phải công nhận rằng dù hiểu theo cách nào thì nó cũng minh chứng cho việc “anh” đã xa Huế, xa Huế và Vader, chỉ còn biết bồi hồi, nhớ lại một đêm ngon giấc, một giấc mơ trong ký ức. . Những câu thơ của 6/7 nhân vật thật giản dị mà gợi những kỉ niệm ngọt ngào chân thành, những kỉ niệm êm đềm mà sâu sắc. Ngay lập tức, những dòng ký ức tiếp tục tuôn trào, từng nét từng nét dần hiện ra khung cảnh khu vườn:

<3

Một làng quê là thế, chỉ còn lại vài nét ký họa, nhưng đó hẳn là ấn tượng lưu giữ mãi, không phai trong ký ức nhà thơ. Đây là ánh nắng tinh khiết của một ngày mới. Không phải cái nắng chói chang hay cái ửng hồng mà chúng ta thấy trong “mùa xuân chín” :

– Dưới nắng cháy, giấc mơ tan biến

– Năm nay mẹ còn gánh lúa

Dọc dòng sông trắng

Đó không phải là “ánh nắng từ trên trời rơi xuống” trong bài thơ của Hồ Yan, hay mặt trời mùa hè tỏa sáng như một mặt trời thực sự trong bài thơ. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Kết Đồ đã không miêu tả sự tinh khiết, trong trẻo như ánh nắng mà nhà thơ muốn gợi lên trong lòng người đọc. Nắng trong bài thơ là tia nắng đầu tiên trong ngày. Trong câu thơ 7 chữ, nhà thơ nhắc đến “nắng” hai lần, dường như muốn nhấn mạnh đến màu nắng trong veo, tinh khôi, như muốn mở ra cả một khu vườn tràn ngập ánh nắng. Đó là “nắng mới” trên thân cây trầu bà thẳng tắp, nhẵn nhụi. Chúng ta đều biết trầu bà là loài cây ưa nắng với thân cây thẳng tắp, không mục, là loài cây dường như luôn đón nhận những tia nắng đầu tiên. Vì vậy, ánh nắng trên cây trầu bà có lẽ là ánh nắng thuần khiết và trọn vẹn nhất. Như được ngâm trong sương suốt đêm, cây trầu buổi sáng đón nắng mới, cành lá óng ánh sức sống. Bằng cách này, mặt trời ẩm, tươi và lấp lánh. Vừa đủ ấm, đủ trong, không gắt quá, không gắt quá. Rồi dưới ánh nắng, cả khu vườn như bừng lên sức sống mới:

Vườn ai xanh như ngọc

Đại từ thông tục “ai” dường như làm cho khu vườn có vẻ xa xăm. Nó gợi lên biết bao kỉ niệm đẹp gần xa. Đặc biệt, những từ láy, ẩn dụ trong bài thơ này cũng rất tinh tế và tài hoa. Nhà thơ đã dùng từ “chang” thay cho từ “chang” để miêu tả màu xanh ngọc bích của cây cối. “Mượt mà” không chỉ là màu xanh ngọc bích của lá, mà còn là sự trẻ trung, mềm mại, tỏa sáng và sức sống tươi trẻ của khu vườn. Hình ảnh tương phản “cửu ngưu” không xa lạ trong thơ ca, nhưng ở bài thơ này, đối lập với những từ ngữ khác tạo thành một hình ảnh có vẻ đẹp riêng. Người đọc như được tận mắt nhìn thấy màu xanh ngọc bích trong khu vườn, không chỉ mượt mà tươi tốt mà còn trong veo như ngọc bích trong vắt. Từ “tai” gợi lên tiếng kêu thán phục, ngỡ ngàng như khoảnh khắc nhà thơ không dứt ra được trước vẻ đẹp của cây cỏ. Vì thế, cả khu vườn như ảo mà thực, tràn đầy sức sống, quý phái và tao nhã. Làm sao chúng ta không nhớ và yêu một khu vườn như vậy?

Trong bóng mát của cái cây đó, một khuôn mặt với những dòng chữ xuất hiện. Vẫn còn nhiều quan điểm tranh cãi về cách hiểu chất làm đầy da mặt này. Đây là khuôn mặt đàn ông hay phụ nữ? Khuôn mặt của một cô gái hay chàng trai Huế phương xa, khuôn mặt của một vĩ nhân hay một người đang nhớ đến Vader. Để hiểu đúng câu thơ này, chúng ta cần lưu ý một đặc điểm của phong cách Lãng mạn. Các nhà thơ lãng mạn khi miêu tả nhân vật thường gợi những cảm xúc chung chung, ít đi sâu vào những nét riêng. Hanmotu cũng không ngoại lệ. Khuôn mặt của phông gợi cho người đọc một vẻ đẹp nhân hậu và giản dị, không quá khuôn mặt mà là khí chất. Nên dù hiểu thế nào thì ở đây ta cũng cảm nhận được sự hài hòa giữa cảnh vật và con người, nhìn bóng người thoáng qua sau kẽ lá như nói cho ta biết một khoảng cách nào đó. Xa, về một không gian ngăn cách giữa người nơi này với nơi kia.

Có thể thấy, đoạn đầu miêu tả giản dị mà tinh tế vẻ đẹp của đêm lớn ở Huế hay cuộc sống tươi đẹp bên ngoài. Đây là hình ảnh khu vườn dưới ánh nắng ban mai, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Tất cả các chi tiết được phối hợp ở chỗ ngắn gọn, giản dị và hấp dẫn người đọc. Khi viết những dòng này, nhà thơ đã xa trái tim của mình, bị bệnh tật, mặc cảm và cô đơn. Nhưng kí ức về đêm trọng đại ấy vẫn còn sống động, và nhà thơ vẫn nhìn cuộc đời với một tình yêu bao la. Có lẽ phải yêu nhiều, nhớ nhiều, yêu nhiều thì người ta mới quên đi nỗi đau và chỉ nhớ đến vẻ đẹp của thơ ca. Phải chăng vì tình yêu mãnh liệt ấy mà người đọc không khỏi xúc động trước bức tranh mà nhà thơ miêu tả?

Từ phong cảnh Thanh Nguyên ở đoạn một, đoạn hai mở rộng không gian đến dòng Hương Giang thơm ngát, Khương Nhạc Châu:

Gió theo gió, mây theo mây, hoa ngô đồng trong nước buồn, thuyền bên sông trăng, ai cứu trăng đêm nay?

Thơ Hàn thường có lối chuyển biến nhanh, đột ngột, bất ngờ như vậy. Chúng tôi cũng tìm thấy đặc điểm này trong bài thơ này. Trong khoảnh khắc, những khu vườn xinh đẹp và trong trẻo biến thành mây trời, và dòng sông cô đơn đầy những chia tay hoang vắng. Cảm giác này được gợi lên từ những câu thơ đầu của khổ thơ. Khi một câu thơ được chia đôi, ta dễ dàng nhận ra sự đứt quãng, tách biệt, giống như hai vật bị ném ngược chiều nhau. Trong tự nhiên, gió và mây là hai thứ đi đôi với nhau, gió thổi mây bay. Tuy nhiên, ở hai bài thơ này, hai hình ảnh được tách ra ở hai nhịp, tạo cảm giác chia cắt. Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây. Họ dường như không còn bất kỳ mối quan hệ nào nữa. Có lẽ bút pháp lãng mạn đã tạo ra những hình ảnh nghịch lí, vi phạm quy luật tự nhiên và giúp nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình. Hàn Motu mắc bệnh nan y khi còn trẻ, sống trong đau đớn, mặc cảm, xa cách với đời khiến thơ ông luôn phảng phất đâu đó nỗi đau, nỗi buồn, sự chia ly.

Từ khung trời hoang vắng, mây gió cách biệt, soi bóng dòng suối thơm:

Dòng hoa ngô đồng buồn

Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để diễn tả nỗi buồn trong lòng người, tràn ngập không gian cảnh vật. Không chỉ là mây gió bay đi, nỗi buồn tan tác, đến cả nước sông cũng cô đơn lẻ loi, mang theo nỗi buồn vô biên. Vẫn là một làn hương, vẫn là dòng sông của biết bao bài thơ, nhưng trong thơ Hàn lại có những cảm xúc, những suy nghĩ khác. Không chỉ trên mặt nước phẳng lặng, trong bóng mây buồn, mà cả hai bên bờ lạch, hoa ngô đồng dường như bất động. Hoa ngô đồng là loài hoa bình dị thường ngày, không màu, không hương, nhẹ nhàng và mong manh. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng từ “lay” để gợi lên sự chuyển động của những bông ngô đồng. “Dối” rất nhẹ, động tác rất nhẹ, thoáng qua. Đó là một động từ dường như không mô tả một hành động nhưng thể hiện nhiều cảm xúc và cảm xúc hơn. Trong thơ ta thấy hình ảnh những bông hoa đung đưa bên bờ sông vắng. Dân ca:

Ai cưỡi gió về đồng khóm hái hoa sậy, để lại nỗi buồn cho ai?

Dường như những câu thơ này đều gợi lên một nỗi niềm chung, sự hoang vắng của lòng người và sự tĩnh lặng của không gian giữa sự xao xuyến của hồn hoa.

Hai dòng tiếp theo của khổ thơ thứ hai đưa thời gian vào một đêm trăng huyền diệu:

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đêm nay chở trăng về ?

Những chất liệu trong hai bài thơ rất quen thuộc. Đó là những hình ảnh con đò, bến đò, dòng sông, vầng trăng… những hình ảnh xuyên suốt thơ ca từ ca dao đến thơ ca trung đại, hiện đại. Những hình ảnh này thường gợi không gian lãng mạn, khung cảnh thơ mộng và thường gắn liền với những buổi hò hẹn của đôi lứa. Trong thơ Hàn Hàn, trăng cũng là một hình ảnh đặc biệt, trở thành mật mã lưu luyến những ai yêu thơ ông. Qua các thời kỳ, hình tượng trăng trong thơ ca Hàn Quốc có sự vận động rất rõ rệt. Có những lúc “trăng nằm trên cành liễu”, có những lúc “mở cửa thấy trăng trắng”, và cũng có những lúc “nửa vầng trăng hôm nay/có ai cắn”…

Vầng trăng trong thơ Hán gắn liền với nỗi đau tột cùng, khát vọng tột cùng của ông. Vì thế, trăng không chỉ là hình ảnh lãng mạn mà đôi khi còn là trăng máu, trăng điên. Nhìn chuyển động, trăng ở làng này đặc biệt lắm. Đó không phải là vầng trăng gợi tình cũng không phải là vầng trăng điên cuồng trong nhiều bài thơ khác của nhà thơ bất hạnh.

Đó là một vầng trăng sáng, một ánh trăng huyền ảo, một vầng trăng cô độc nhưng không ghê rợn, gợi lên một vẻ đẹp khác. Có dòng sông lung linh dưới ánh trăng, những con thuyền như vầng trăng rằm nhẹ nhàng trôi trên mặt nước. Sự đối lập giữa màn đêm và không gian lung linh, sự đối lập giữa không gian tĩnh lặng và thuyền trăng. Có cô đơn, có đau đớn, nhưng nó lộng lẫy và huyền ảo. Đại từ thông tục “ai” một lần nữa thúc đẩy sự phù phiếm của câu thơ này.

Nhưng chữ đáng quý nhất trong hai câu này và cả trong cả bài thơ có lẽ là chữ “kịp thời” trong câu hỏi tu từ cuối câu, nó gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi khắc khoải, đau đáu. học giả Hàn Quốc. Từ “kịp thời” bao hàm nỗi niềm, tuyệt vọng, đau đớn của nhà thơ và thể hiện trọn vẹn khát vọng sinh tồn đến tột cùng nhưng số phận thật bất hạnh, éo le. Hanmotu chạy đua với thời gian, sinh, lão, bệnh, tử.

Trong cuộc thi ấy, công sức của nhà thơ dường như vô ích. Nhưng lòng yêu đời, khát khao sống, khát khao được giao tiếp với thế giới bên ngoài vẫn còn mãnh liệt. Chính những sự bồng bột đó đã khiến Han Motu lúc nào cũng đau khổ, thấp thỏm khi về nước. Như vậy, ở khổ thơ thứ hai ta thấy sự vận động của tứ bình không chỉ theo không gian, thời gian mà hơn hết là ở dòng cảm xúc. Từ nỗi nhớ làng, nhà thơ như trở về với thực tại và nhìn thấy những bi kịch, bất hạnh của cuộc đời mình. Có phải vì thế mà cả đoạn trường ngập tràn sự chia ly?

Quý thứ ba bắt đầu bằng hình ảnh một vị khách từ xa

Ta mơ thấy khách phương xa, khách phương xa áo trắng không thấy.

Hình ảnh người khách phương xa được lặp lại hai lần như muốn nhấn mạnh một bóng dáng ngày càng mờ ảo, xa xăm. Ở nửa sau của bài thơ, từ mộng mơ mất đi hình ảnh của người lữ khách xa vắng, nó dường như nhỏ dần, xa dần, và dường như xa dần, xa dần, khó nắm bắt. Chính vì vậy, dù sự hiện diện của mọi người không mang lại niềm vui và cảm giác đoàn tụ nhưng lại làm tăng cảm giác chia tay. Bóng dáng người lữ khách từ xa lẫn trong màn sương mờ ảo, trắng xóa đến mức không nhìn thấy gì. Cả hai tạo nên một không gian hư ảo, một không gian tâm tình nhất của nhà thơ, hơn là một không gian thực. Hân mặc đất và đặc biệt yêu thích màu trắng. Chúng ta đã thấy màu này trong nhiều bài thơ khác của ông

Tôi sẽ tìm một hòn đá trắng ngồi xuống thả hồn thơ

Có lẽ vì màu trắng là màu của sự trong trắng, trinh nguyên nên Hàn Motu có cảm tình đặc biệt với màu này. Câu thứ hai lạ ở cách diễn đạt, lạ ở cách truyền tải cảm xúc. Giống như đang kinh ngạc trước vẻ đẹp huyễn hoặc tuyệt đối của “em”. Sự trong trắng dường như đã xóa nhòa mọi ranh giới, chỉ còn lại một khoảng không mơ hồ trong “giấc mơ trắng”. Không gian trong phần thứ ba chỉ có một phác thảo của “ở đây”. Cái này chắc là để phân biệt với cái kia, cái bên ngoài. Thế là không gian không còn là đêm tuyệt vời, là hương giang hay xứ Huế. Không gian chỉ có ở đây – nơi của bệnh tật, đau đớn, tuyệt vọng, mặc cảm và chia ly, còn bên ngoài – cuộc sống của yêu thương, khao khát, kỷ niệm, ký ức và hy vọng. Tôi chợt nghĩ đến một bài thơ khác, một bài thơ khác về chia sẻ vui buồn:

Tôi đang ở đây hay ở đâu đó?

Sự chia cắt không gian cũng là biểu hiện của sự đau buồn, tuyệt vọng. Thế là tình yêu chênh vênh của đôi lứa càng thêm đau

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện hai lần, câu hỏi tu từ cuối bài thơ có tính liên kết hình thức với hai đoạn trên, đồng thời là biểu hiện tột cùng của nỗi đau về mặt cảm xúc. Còn gì đau khổ hơn khao khát một cuộc sống nhân ái chỉ để rồi thêm đau khổ chia ly, cô đơn. Còn gì đau đớn hơn ta nhớ nhung bên ngoài, nhưng rồi sẽ dần bị lãng quên với bên ngoài? Tình yêu của ai sẽ bền chặt? ai sẽ nhớ bạn

Hàn Motu là một nhà thơ tuyệt vời trong phong trào Thơ Mới. Đây thôn Vida là một bài thơ lạ trong di cảo của nhà thơ. Bài thơ không ma quái hay ám ảnh mà trong trẻo đến lạ lùng. Có lẽ đó là những kỉ niệm đẹp trong cuộc đời, là niềm khát khao, khát khao trong đau khổ của nhà thơ. Như vậy, lời thơ đau đớn nhưng gợi những cảm xúc tích cực, trong trẻo khiến ta hiểu và trân trọng tâm hồn, yêu đời hơn của nhà thơ.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Mô hình 8

“Ai mua trăng, tôi bán trăng lấy cành liễu, bán trăng cho người khác. Tôi bán trăng chứ không bán lời hứa yêu thương.”

Ai sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “Bản tin hàng tháng” của Han Mektu – một cái tên đã in sâu trong lòng độc giả. Cái chết được gọi là “một tâm hồn thơ mộng, mạnh mẽ nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, như có một cuộc giằng co, giằng xé quyết liệt giữa tâm hồn và thể xác”. ông “đã tạo cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái, xa lạ với đời thực. có lẽ vì thế mà trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân xếp Hàn Mặc Tử ngang hàng với Chế Lan Viên trong “kỳ dị” Trong thi ca nhóm. Vậy mà ngoài những dòng điên cuồng ấy còn có những dòng trong trẻo đến bất ngờ. “Làng quê lắm” là một bài thơ như thế! Đêm tuyệt vời như một lời đáp từ một phía cho một tình yêu vô vọng. Một lời bộc bạch về tình đời nhưng tác giả đã một căn bệnh ung thư ẩn sâu trong tim anh.

Theo nhà thơ Quách Tốn (bạn thơ của Hàn Mặc Tử), bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được lấy cảm hứng từ một tấm bưu thiếp của cô gái tên Hoàng Cúc, một cô gái Huế dịu dàng, thanh lịch. .Một kiệt tác của đời thơ Hàn, một bài thơ trong sáng hiếm có được viết vào những ngày đau khổ nhất, đen tối nhất của cuộc đời ông. Vào ngày này, những người Hàn Quốc phải tự cô lập mình khỏi cộng đồng và sống một mình trong một ngôi làng nhỏ vắng vẻ ở tỉnh Bình Định để chữa trị căn bệnh mà người xưa gọi là căn bệnh “quỷ quái”.

Xứ Huế đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các nghệ sĩ không biết từ bao giờ. Từ âm nhạc, hội họa đến sáng tác… thể loại nào cũng để lại “dấu ấn” riêng. Nhiều người phải thốt lên: “Đã bao lần về xứ Huế mộng mơ ôm ấp tình ngọt ngào” hay “Về Huế câu thơ khắc nón, cầm bên sông”…”, màu sắc trong bài thơ, trong tim ai Trong tim, nay trong thơ Han Mike Tu. Mở đầu là một câu hỏi tế nhị:

“Sao em không về làng chơi?”

Giống như lời hỏi thăm, nhắc nhở, trách móc nhưng cũng là lời giới thiệu, mời gọi mọi người. Bài thơ có bảy chữ nhưng liên tiếp đến sáu lần làm dịu đi giọng điệu trách móc mà chân thành, xót xa biết bao! Nhưng ai trách, ai hỏi? Phải chăng đó là Yuju, cô thôn nữ xinh đẹp mà anh phải lòng không bao giờ quên. Đừng! Không phải hoa cúc. Câu hỏi ấy xuất phát từ chủ thể trữ tình Hàn Mike Tử, từ sâu thẳm trái tim Huế, để rồi đặt ra câu hỏi tự vấn khắc khoải ấy. Bản sao tự hỏi mình cần phải làm gì, điều mà lẽ ra anh phải làm từ lâu – đó là trở về làng sống lại cảnh cũ người xưa nhưng không làm được, và bây giờ không biết rằng mình vẫn còn cơ hội đó. nhiều hơn hoặc nhiều hơn nữa. Nhớ nhung, yêu thương, khao khát nhưng cũng đầy mặc cảm và nghi ngờ liệu mình có khả năng thực hiện ước mơ của mình hay không. Vậy có cách nào khác để đạt được mong muốn này không? Cơ hội trở lại trong đêm trọng đại gần như không còn. Nhà thơ chủ động tách mình ra khỏi thế gian, đoạn tuyệt với cuộc đời nhưng vẫn tiếp tục yêu, trở về với đêm tuyệt vời một cách hoài niệm, dùng trí tưởng tượng để chắp cánh cho tình yêu. Những hình ảnh đẹp nhất của vi đà và huệ hiện lên sống động trong kí ức của nhà thơ:

“Nhìn nắng vàng mới rọi vườn nhà ai xanh như lá tre”

Vida xuất hiện trong ký ức của Han Motu thật đơn giản mà thật đẹp! Với tình yêu thiên nhiên của mình, ông đã thể hiện trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung đặc trưng bởi ánh bình minh và những mảnh vườn thân quen. Đây là ánh nắng ta thấy trong bài “Chín suối” của tác giả:

“Dưới nắng cháy, khói mơ tan, mái tranh dát vàng”.

Nắng trong thơ Trung Quốc thường lạ, tạo cho người ta ấn tượng về “nắng tươi”, “nắng chói chang”, nhưng ở Vệ Thôn lại là “nắng mới”. Chính ánh nắng tinh khiết, trong lành và trong trẻo của buổi sớm mai đã làm cho thiên nhiên ấm áp hơn và tràn đầy sức sống. Ai đã từng sống với trầu có thể dễ dàng nhận thấy trầu là loài cây cao chót vót, thậm chí ở một khu vườn nào đó, nó có thể là cây cao nhất. Vì vậy trầu là cây đầu tiên đón nhận tia nắng đầu tiên của buổi sáng. Ánh nắng ban mai chiếu vào khu vườn, dần dần lấp đầy ngọn cây trầu cau lại tàn. Khi nó tràn ra, nó biến cả khu vườn xanh tươi thành một viên ngọc lớn. Khu vườn trông xanh tươi, mơn mởn, mượt mà và tràn đầy sức sống, như thể từng chiếc lá đang được bàn tay ai đó nâng niu chăm sóc.

Không những thế, khu vườn vừa được gột rửa bởi sương đêm nay lại bừng lên một màu xanh ngọc bích trong vắt dưới ánh nắng khiến thi nhân không khỏi trầm trồ, thán phục. Trong khung cảnh ấy, sự có mặt của con người làm cho thiên nhiên vốn tươi đẹp trở nên trìu mến. Đây là hình ảnh người dân xứ Huế, một khuôn mặt “nhồi bông” lấp ló sau những chiếc lá tre. Nhà thơ không tả thực mà gợi ấn tượng, thể hiện cái nhìn tinh thần của con người nơi đây với vẻ đẹp tiềm ẩn, tao nhã. Vẫn là khu vườn ngày nào, quen thuộc với cấu trúc vườn đặc trưng ở Huế, ai chẳng biết, vẫn là con người đó, nhưng sau ngòi bút của Hàn Kết Đồ, nó trở nên mới lạ, tình cảm và xúc động biết bao! Có lẽ, điều này không chỉ nằm ở góc độ, tài miêu tả cảnh sắc và con người tài tình, mà quan trọng hơn là tình cảm, nằm ở tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với cảnh và người xứ Huế.

Vẫn là tình yêu của cuộc đời ấy, nhưng ở vế thứ hai, nó được thể hiện dưới một hình thức khác, bức tranh không còn tươi đẹp, ấm áp mà tản mạn, rời rạc:

“Gió theo gió, mây theo mây

Suối buồn, bông ngô đung đưa”

Hai câu thơ nói đến một thực tại bâng khuâng. Mọi thứ dường như đang trôi đi, gió cuốn bên này, mây bay về bên kia… Nếu lấy quy luật tự nhiên mà suy nghĩ, hình ảnh thơ chứa đựng sự phi lý, bởi gió cuốn mây bay, và gió thổi bay những đám mây. Cùng đường bỗng lác đác chia lìa nơi đây. “Gió” và “mây” được đẩy về hai đầu bài thơ gợi lên khoảng cách xa nhau, nhưng cùng với xu hướng vận động, chúng ngày càng xa dần, cả bài thơ tràn ngập một cảm giác trống vắng. Mượn hình ảnh mây gió, tác giả muốn nói lên tâm trạng của chính mình, sự chia ly khỏi cuộc sống trần gian tươi đẹp, có lẽ cuộc chia ly này là vĩnh viễn, bởi Hàn Mễ Tu giờ đã thành phế nhân, nằm chờ chết.

Còn dòng sông này (tên cũ là sông Hương) lại mang bộ mặt “sầu não” như không có chuyện gì xảy ra. Nghĩa sĩ đã khéo léo cài đặt biện pháp nhân hóa trên dòng sông để làm cho “dòng nước buồn”. Là “Dòng sông buồn” bởi vì nó mang một tâm trạng buồn, hay là nỗi buồn của Fengyun để lại nỗi buồn trong dòng sông? Không chỉ dòng sông mà hình ảnh “bắp ngô nở” cũng gợi một nỗi buồn hiu quạnh – một nỗi buồn bao trùm đất trời. Đằng sau mây, gió, đất và nước là tâm trạng của một người, nặng trĩu nỗi buồn chia ly, tình yêu vô vọng, tất cả giờ đây chỉ là một giấc mơ.

Trong xu thế trôi đi, bay đi, trôi đi, trôi đi, Hàn Motu mong rằng có một thứ có thể “báo đáp” cho cô, đó chính là vầng trăng:

<3

Từ xưa, con thuyền và dòng sông là những hình ảnh thường thấy trong thơ ca, nhất là thơ ca Huế. Nhưng lạ lùng thay, cái hay trong thơ Hàn lại là hình ảnh con thuyền “chở trăng” lênh đênh trên “sông Trăng”. Sự liên tưởng phong phú và tinh tế của nhà thơ tạo nên những hình ảnh bồng bềnh giữa hai bến bờ thực và ảo. Không biết là nước hóa trăng hay trăng tan vào nước, chỉ biết nước sông lâu lâu hóa thành những vệt sáng, bờ sông thành “bến trăng” và thuyền đầy trăng. . Hình ảnh thực trở thành hình ảnh huyền ảo, lung linh hư ảo.

Tuy nhiên, Hàn Kết Đồ vẫn một lòng mong trăng, mong thuyền chở trăng sẽ về với mình “đúng giờ” “đêm nay”. Tất cả hy vọng của Hàn Quốc đều được đặt vào con tàu chở mặt trăng, và vẫn còn hy vọng rằng sẽ không có gì phải lo lắng. Những câu thơ tập trung vào chữ “kịp thời” giản dị, khiêm tốn, không bóng bẩy, khoa trương mà sâu sắc. Nó gợi cảm giác lo lắng, bồn chồn. Nó ẩn chứa một niềm đam mê lớn với thời gian. Nó tiết lộ cảm giác tội lỗi đối với những món quà phù du. Han Motu dường như đã chờ đợi rất lâu, và anh ấy nhận ra rằng thời điểm anh ấy không thể chờ đợi đã đến, con người chưa kịp thưởng thức cảnh đẹp thì mạng sống có thể bị cắt đứt bất cứ lúc nào. Thơ trăng, thơ đời.

Cùng với sự mặc cảm về cuộc đời ngắn ngủi, chữ “kịp thời” còn bộc lộ cho người đọc thấy một kiểu thái độ sống của Hàn Kết Đồ: cuộc đời là cuộc chạy đua với thời gian, nắm bắt từng giây từng phút. Thời gian của tôi đang ngắn lại từng phút, từng ngày, bởi sự chia tay vĩnh viễn đang đến gần… sống là phải chạy đua với thời gian, đây là cuộc gặp gỡ của hai nhà thơ. sự sống trên Trái đất. Nhưng lối sống của mỗi người là khác nhau. Bản ngã cảm thấy “cái chết” luôn chờ đợi mọi người ở “cuối con đường” nên tôi tận dụng cuộc sống của mình để tận hưởng niềm hạnh phúc “lớn nhất” trần gian. Bản ngã lạnh lùng, cảm giác “cái chết” đang “gần kề”, nên chỉ cần “sống” là đã hạnh phúc lắm rồi.

Đoạn ba tiếp nối câu trước, thể hiện niềm khao khát thế giới bao la của nhà thơ. Đó là một sự hi vọng, một sự chờ đợi, một sự khao khát, một sự lo lắng không nguôi.

“Giấc mơ từ phương xa bay về, áo trắng nhìn không thấy nơi này, sương mờ mịt, biết ai thương ai hơn?”

Nếu như hai dòng đầu yêu đời chủ yếu là yêu cảnh thì khổ thơ cuối kết thúc là yêu người, nếu trên là vườn đẹp, trăng đẹp thì ở đây chỉ có một mình là đẹp. Dễ dàng thừa nhận rằng hình ảnh “khách phương xa” ở đây chính là đối tượng mà bản thân chủ thể theo đuổi. Có lẽ đó là Yu Ju (anh chàng gửi bưu thiếp, người Hàn Quốc mê trộm), Cô gái Huế (cô nữ sinh Đồng Khánh áo trắng thướt tha), và gần như tất cả những người khác. Dù quen biết ai, chúng ta vẫn thấy giữa nhà thơ và họ có một khoảng cách rất xa. Xa vì làm “khách”, xa vì “đường dài”, xa vì màu áo “trắng quá”, trắng đến hư ảo, hư ảo đến đau lòng, và xa xa. Cấp độ này không thể nắm bắt được và chỉ có thể đạt được bằng cách hòa mình vào “sương khói”. Những hình ảnh đó không có thật, chỉ là “những giấc mơ”.

Tất cả những điều này chỉ là sự mờ ảo của thực tế ảo. Zi muốn kiên trì và níu kéo, nhưng cô ấy không thể, bởi vì khung cảnh và cuộc sống trước mặt cô ấy chỉ là “sương mù” và “khói”. Loay hoay, nản lòng nên nhà thơ có lúc rơi vào hoài nghi :

“Ai biết tình ai giàu?”

Hai đại từ tình thái “ai” chỉ hai đối tượng: chủ thể trữ tình và đối tượng được chủ thể trữ tình thể hiện, dù hiểu theo cách nào, dù “ai” là ai, là ai thì nó vẫn là chỉ là tình yêu đó, bản thân đó— —Han Ketu, trong hành trình bất đắc dĩ suýt đạt đến “đỉnh cao”, vẫn đau đáu nhìn lại cuộc đời, thiết tha, khắc khoải, nhưng yêu mà cố chấp. Tình yêu cuộc sống là quý giá, tình yêu trong tuyệt vọng, tình yêu trong tuyệt vọng, tình yêu nhiều hơn nữa, tình yêu có thể vượt qua thử thách, tình yêu vượt qua cái chết, không phải là càng quý giá sao?

“Đây Là Làng Xây Cho Lớn” là một bức tranh cuộn tuyệt đẹp về khung cảnh nông thôn và vẻ đẹp nhân văn được vẽ bởi một nhà thơ đa cảm với trái tim thơ mộng và yêu thương. Bằng nghệ thuật liên tưởng và câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Kết đã phác ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đẹp như tranh vẽ và rực rỡ, ẩn chứa trong đó là chính nỗi lòng của nhà thơ. Trên đời, nỗi đau của cuộc đời ngắn ngủi. Tuy nhiên, ta vẫn thấy đằng sau tình cảm ấy là một trái tim lạnh giá với một tình yêu thiên nhiên rực lửa và khát khao một cuộc sống ấm áp, bởi cái chết đã mang theo một trái tim khóc vì tình yêu suốt đời.

Bài thơ “Đây Là Làng Vida” của Han Mike Tu đã dừng lại, được cất vào “Những Bài Thơ Điên” và đóng kệ sách để độc giả tìm đọc. Nhưng cảm xúc dư thừa có thể rộn ràng và sống động trong lòng người đọc. Khó chịu, không thể nguôi ngoai, không thể diễn tả, bởi vì chúng ta nhận ra tình yêu trong nỗi đau. Đó là tình yêu thiết tha của nhà thơ đối với cuộc sống trong bi kịch đau đớn của sự chia ly với cuộc sống.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 9

Nhắc đến Hàn Kết Đồ, không thể không nhắc đến kiệt tác bất hủ “Đây thôn Vi Đa” của ông. Bài thơ lấy cảm hứng từ một tấm bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái mà anh đã một lần phải lòng. “Làng Weida” được sáng tác trong thời gian ông về và điều trị nên mỗi vần thơ trong các câu thơ đều mang theo niềm mong mỏi đồng cảm của nhà thơ.

“Sao em không về làng chơi?”

Câu hỏi tu từ đầu bài thơ thể hiện niềm hi vọng, mong đợi của cô gái. Câu hỏi vừa là lời mời gọi, vừa là sự chờ đợi, vừa là lời trách móc, vừa có chút hờn dỗi. Lời ca nhẹ nhàng như chính giọng nói của người Huế, nhẹ nhàng và dịu dàng.

Sau khi chậm rãi hỏi, một bức tranh Làng Vĩ tươi đẹp, trong lành hiện ra:

“Nhìn nắng vàng mới rọi vườn nhà ai xanh như lá tre”

Có phải vì được mời mọc nồng nhiệt nên dù không thể về Huế, Hàn Mai Tử vẫn quyết định quay về thưởng ngoạn cảnh đẹp quê hương, em yêu. Hình ảnh đầu tiên của chúng ta là “Nắng Hàng Trầu” – một màu nắng rất đặc trưng trong thơ ca. Đây là cái nắng trong lành của buổi sớm mai xứ Huế – “mặt trời vừa mọc”, cây trầu vừa thức giấc, còn đọng sương trên những chiếc lá pha lê dưới ánh nắng ban mai. Nhìn bóng nắng trên cây trầu bà từ xa, càng đến gần bạn càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp của cảnh vật. Một màu xanh ngọc bích tươi sáng và sang trọng gợi lên vẻ đẹp của một khu vườn. Tính từ “mướt” gợi lên vẻ non tơ, mềm mại của lá. Đúng vậy, khu vườn được tưới mát bằng hương thơm của thiên nhiên và được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà càng ngày càng tươi đẹp. Một cô gái e lệ, rụt rè bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn mình dưới tán lá trúc xanh màu ngọc bích, làm nổi bật vẻ đẹp của không gian và con người xứ Huế. Trong từng đường nét thanh thoát, tươi tắn ẩn chứa một nỗi lòng da diết nhớ về chốn cũ, người xưa. Nhưng điều này có thể khó đạt được.

Nếu như khổ thơ đầu cho ta ấn tượng về một buổi sớm mai thì khổ thơ thứ hai lại đưa ta trở về không gian của những con đò, dòng sông và vầng trăng chiều và tối:

“Gió theo gió, mây là mây, nước là sầu, hoa ngô đồng đưa thuyền dừng bến sông trăng, đêm nay trăng về”

Phong vân ngụ ý phiêu bồng phiêu bạt, biện pháp đối nghịch “gió thuận theo gió, mây theo mây” nhấn mạnh sự ngăn cách của hai người. Phải chăng đó là ẩn dụ nhà thơ bị chia lìa với người mình thương mến, và dù yêu nhau nhưng không thể ở bên nhau trọn đời? Nghệ thuật nhân hóa “sầu nước, hoa ngô đồng” khẳng định nỗi buồn trong lòng nhà thơ thấm đẫm cảnh vật, hay tâm hồn nhà thơ đa sầu đa cảm nhưng cảm nhận thiên nhiên cũng buồn. Đau đớn, xót xa trong lòng, vì sinh ra với:

“Cảnh không sầu, cảnh làm người buồn, cảnh không vui”

Nếu ở vế 1 phảng phất nét buồn, cảnh vật còn trong lành thì sang vế 2, cảnh vật đượm buồn, nỗi buồn cô đơn cũng đậm đà hơn:

<3

Từ “đúng lúc” được thêm vào câu hỏi tu từ “Đêm nay có rước trăng về kịp không?” Nó thể hiện nỗi nhớ của tác giả về hạnh phúc và về một người có thể cộng hưởng với nhà thơ. Qua bài thơ, ta thấy được sự bất lực của tác giả trước thời gian. Dường như nhà thơ đem nỗi mặc cảm tội lỗi của chính mình vào trong mọi bài thơ của mình.

“Mơ khách phương, khách phương xa, áo em trắng không thấy.”

<3

Từ “mộng” đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh ước mơ của tác giả về những điều đẹp đẽ, như khách phương xa đến thăm, tâm sự với người cô đơn trong bệnh tật. Việc lặp lại từ “khách đường xa” khẳng định ước mong được gặp nhau của Hàn Kết, nhưng có lẽ vì khách xa càng ngày càng xa nên ước mơ đó không thể thực hiện được.

Với lối hành văn tài hoa, hàm súc phong phú, Hàn Kết Đồ đã mang đến cho độc giả những vần thơ hay. Trong lời có xúc, trong lời có tình, cảm xúc tinh tế gợi cho người đọc dư vị yêu đời qua câu thơ.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 10

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh diễn tả phong trào thơ mới rất thấm thía: “Đời ta gói gọn trong một chữ Mất bề rộng tìm bề sâu Mà càng đi càng lạnh. Nhân gian, ta phiêu bồng trong trường yêu, lưu luyến, ta si mê Hàn Mai Đồ, Chế Lan Vi, ta đắm say xuân mộng Nhưng động tiên đóng cửa, tình yêu không được bao lâu, vô minh thức dậy , niềm đam mê Vẫn bơ vơ Về với hồn còn huy gần trong tay Tôi bàng hoàng buồn

Nếu như những con quỷ mùa xuân luôn bị ám ảnh bởi những cơn sốt và lo âu, thì nhà thơ Hàn Mc Tử lại liên quan đến sự quái đản và điên rồ, và trong thế giới quái đản điên cuồng đó, người ta vẫn tìm thấy tình yêu của nỗi đau, tình yêu của thế giới lo âu của cuộc sống , mặc dù nó để lại cho anh nhiều bất hạnh và buồn phiền. “Làng Này” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mai Tử và được đánh giá là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất, hay nhất của phong trào Thơ Mới và nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hàn Mạch Tử tên thật là Nguyễn Trung Chí, sinh năm 1912 trong một gia đình Công giáo nghèo ở tỉnh Quảng Bình. Ông đã nổi tiếng là một nhà thơ khi mới 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông không chỉ có những hình ảnh quen thuộc, trong trẻo, trong sáng, thiêng liêng mà còn xen lẫn những điều rùng rợn, ma mị, cuồng loạn tạo nên một hương vị thơ vô cùng lạ. phức tạp.

Đây thôn Vĩ Dạ nằm trong tập thơ điên năm 1938, sau đổi tên là trau, ra đời từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái Huế tên Hoàng Thị Kim Cúc Dương. Hai người bị ngăn cách bởi địa vị và địa lý đã trở nên vô vọng.

Trong lúc tuyệt vọng không còn hy vọng, Hàn Kết Đồ đã viết rất nhiều bài thơ về vấn đề này, trong số đó có bài đặc biệt “Làng Vida này” được viết khi bệnh tình của Hàn Mỹ Đồ trở nặng, nhưng lại nhận được một tấm bưu thiếp Người xưa, khơi dậy niềm vui nỗi lòng và niềm khát khao sống vô hạn đều được thể hiện một cách sinh động trong bài thơ này.

Không chỉ vậy, ngôi làng này còn là thông điệp mà Hàn Kết Đồ muốn gửi gắm trong cuộc đời, là khát khao mãnh liệt, háo hức của nhà thơ về cuộc sống nơi trần thế.

“Sao không vào thôn chơi? Xinpai Sunqing mặt buồn rười rượi. Vườn ai xanh như lá trúc, mặt chữ điền.”

Ở khổ thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ, hiện ra thật tinh khôi và trong lành dưới ánh nắng ban mai dịu dàng. Hỏi lại “Sao anh không về làng chơi?” Bởi lời lẽ đều đều, âm sắc đặc biệt, mang đến cho người ta một cảm giác rất êm dịu, ngọt ngào, êm ái, giống như vén một lớp rèm mỏng, gợi lên sự toàn bộ tác phẩm là một vòng cảm xúc mơ mộng và thơ mộng.

Câu hỏi tu từ ấy còn khiến ta liên tục chú ý đến chủ ngữ “anh”, một câu hỏi mà một cô gái Huế nhớ nhung, hờn dỗi duyên dáng đầy ý trách móc. Tại sao chàng trai không bày tỏ lòng mình, cũng có ý nhắc nhở, rủ bạn cũ về Huế.

Đó cũng có thể là tiếng nói của Hàn Kết Đồ, vừa chất vấn, vừa tự nhắc mình tại sao “không về làng chơi”, “không về nữa” là một điềm báo đau đớn về sự bất hạnh trong cuộc đời. Không có nhiều thời gian nên đành phải lỡ hẹn với người cũ của Heshun.

Có thể thấy, trở lại Huế có lẽ là điều trăn trở và nuối tiếc lớn nhất của nhà thơ, ở đó không chỉ là nơi ông đã từng sống mà còn có một người con gái ở đó, ông yêu cô ấy sâu đậm, không biết cô ấy có phải vậy không? là ở đây Chờ đợi, anh ấy vẫn chỉ quay sang anh ấy. Sau câu hỏi tu từ đầy khát khao mãnh liệt được trở lại Huế, Han Mektu đã tái hiện khung cảnh làng Vida nên thơ và đẹp như tranh vẽ bằng những đường nét tuyệt đẹp.

Đây là khung cảnh bình dị trước bình minh, bức tranh tươi mới và độc đáo, là vẻ đẹp của mặt trời nơi từ “bình minh” nhiều lần xuất hiện trong bài thơ “Nhìn mặt trời mọc”. Có thể nói, ngòi bút của Hàn Kết Đồ là một cây bút tài hoa, sẵn sàng phá vỡ những quy tắc lặp đi lặp lại cấm kỵ của thơ ca để tạo nên một bức tranh với nền vàng nhạt, ánh nắng dịu nhẹ, sự hài hòa tràn ngập không gian khiến bài thơ như được thổi hồn vào. đồng thời Một sức sống trẻ trung ấm áp.

Và cái nắng ở đây cũng rất đặc biệt, đó là “nắng của trầu”, phải nói rằng trầu là biểu tượng của xứ Huế, cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn thẳng. nó đón đủ ánh nắng, cả cây tỏa ánh sáng xanh vàng, lòng người thêm thiết tha yêu đời.

“Nắng mới” cũng là một cảm giác mới cho hình ảnh nắng của làng quê, không phải là cái nắng gay gắt như đổ lửa của trưa hè mà là thứ nắng trong veo, tinh khiết và dịu dàng, thật vừa vặn. hoàn hảo với “cây trầu trời tỏa nắng”, cũng mang lại sức sống mới, giống như tâm hồn nhà thơ khi nhận được tấm bưu ảnh của một cụ già, có lẽ phải nói đó là biểu tượng của sự khởi đầu.

Dưới ánh nắng vàng là vẻ đẹp của những khu vườn xứ Huế, một màu xanh rất “mượt” tràn ngập một màu “xanh ngọc” gợi liên tưởng. Chỉ có từ “Chàng” đã gợi lên sự trù phú, tươi mát và đầy sức sống của những khu vườn quê đẹp, đồng thời cũng gợi ra cảnh tắm mình trong sương đêm trong khu vườn mới còn đang nhỏ giọt từng giọt sương trong veo, lấp lánh trong mặt trời, phản chiếu cái mới Mặt trời làm cho từng chiếc lá xanh bừng lên, hiện ra màu xanh ngà, trong và tươi.

Thêm một chữ “Ai” nho nhỏ vào câu thơ chỉ làm cho toàn cảnh thêm trìu mến, lãng mạn, càng làm nổi bật vẻ đẹp của người dân làng trong câu “treo lá che mặt”. Han Ketu sử dụng phong cách “thơ và tranh” của văn học trung đại, kết hợp với nét vẽ mềm mại của những chiếc lá trúc rải rác, để làm nổi bật những nét duyên dáng của khuôn mặt trẻ thơ, lông mày hiền và đôi mắt nhân hậu. Đó là khuôn mặt mang vẻ đẹp và phẩm chất của người con gái mà người ta vẫn hằng ao ước, lòng nhân hậu, thủy chung, cái nhìn về một tương lai hạnh phúc.

Hàn Mặc Tử tả cảnh ngày trong xanh, đưa người đọc trở về với cảnh đêm xứ Huế, nơi nước đục, con thuyền và đặc biệt là ánh trăng đều là những thi liệu quen thuộc trong thi ca. tác giả. Có thể thấy giữa hai đoạn có sự chuyển đổi cảm xúc yêu đời rất rõ rệt, niềm vui sống như mặt trời mọc, rồi Hàn Kết trở về với sự hoang mang, lo lắng, bất an. , Nỗi buồn như dòng sông bao la lạnh lùng.

“Gió theo gió, mây theo mây, nước sầu, hoa ngô đồng đung đưa… Thuyền ai trên sông Trăng, đêm nay có chở trăng về không?”

Hai câu đầu tả cảnh thực của dòng sông Vân Điền ở Huế, 4/3 câu thơ như ngắt đôi bài thơ, tạo nên một cảm giác hụt ​​hẫng khó tả. Các từ “mây” và “gió” khung hình được đưa vào miêu tả cảnh, mây và gió dường như không liên quan gì nhau, mỗi người đi một ngả, trải qua bao đời mây thuận theo gió là định nghĩa của thiên văn, lộ rõ ​​lòng nhau và linh cảm không lành.Han Mike chết trước khi chia ly, một cuộc chia ly khủng khiếp, sự sống và cái chết, không còn khoảng cách, không còn linh hồn.

Từ dòng sông Hương nổi tiếng chậm rãi, ngập ngừng “đuối nước” chảy vào thơ trở thành hình ảnh nhân hóa phản ánh nỗi lòng sầu muộn trước số phận của nhà thơ. Nhưng có lẽ “Hoa Bắp Nở” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ buồn tẻ.

Hai câu thơ tả cảnh sông nước như xóa đi ước mơ, tuổi trẻ, sức sống và hơi ấm tình người của khổ thơ đầu, đánh thức nỗi hoang vắng của tác giả. Bản thân tôi, trong con đường tối tăm, không màu, không vị hiện tại.

Rồi, dường như nàng không chịu nổi nỗi đau của hiện thực lạnh lùng, tiếp tục chìm vào cõi mộng dưới ánh trăng vàng, là người bạn tâm tình cả đời của tác giả ở chốn hiu quạnh này. Vầng trăng trông thật đẹp Đó là dòng sông dát ánh trăng vàng và con thuyền chở trăng Vầng trăng cho tác giả hóa thân vào một thế giới tươi đẹp và nói lên sự sống mà tác giả khao khát. hòa nhập vào.

Câu hỏi “Thuyền ai đậu trên sông Trăng/ Có chở được trăng về đêm nay?” ẩn chứa nỗi băn khoăn của tác giả về kiếp người hữu hạn, liệu còn được vui trăng sáng, hay nuối tiếc cuộc đời.

“Tôi mơ thấy khách từ xa, khách từ xa đến, áo trắng nhìn không thấy… Nơi đây sương mù bao phủ, ai biết được tình sâu?”

Nỗi khao khát được sống trên trần gian của tác giả càng nổi bật ở đoạn cuối, cụ thể là ông khao khát hơi ấm tình thương nơi trần gian, khao khát thoát khỏi sự cô đơn lạnh lẽo, muốn vui sống với tình yêu. Thế giới vốn là hình bóng của người đẹp trong giấc mơ của tác giả, nhưng câu thơ lặp đi lặp lại “mơ khách phương xa, khách phương xa” lại diễn tả một cảm giác lạ lùng, hình bóng của một đứa trẻ. Cô gái dần biến mất vào một nơi ngoài tầm với của tác giả, cô cứ bước đi, nhưng dần biến mất cho đến khi đôi mắt u sầu của nhà thơ phải than thở “áo em trắng quá không thấy”.

Có lẽ kiếp này, định mệnh hai người sẽ không có cùng một kết cục, chỉ có thể nhìn nhân gian, những bóng hình đẹp đẽ nối tiếp nhau trở nên vô hình, thi sĩ ngẩn ngơ trong xót xa. cô đơn sầu muộn. Và khi nhà thơ không thể hòa nhập vào thế giới mà mình hằng mong ước, thì phải quay về với thế giới của chính mình, một thế giới mờ ảo “mờ ảo” không có con người, bị cô lập với thế giới, đối diện với cái chết cận kề, sắp lìa bỏ cõi đời. anh ấy vẫn khao khát được nắm giữ, đó là nỗi đau không thể tưởng tượng được.

Đặc biệt tâm hồn nhà thơ ấy mãi mãi vướng vào một câu hỏi hoài nghi, nghi ngờ tình cảm của người xưa, liệu cô gái có từng dành tình cảm cho mình, hay mối tình thầm kín mà cô gái biết bao năm mà anh không dám thổ lộ. Có thể cảm nhận rõ ràng niềm hy vọng mong manh của một mối tình không thành, bởi tấm bưu ảnh khơi dậy bao cảm xúc trong lòng thi nhân, nhưng cuối cùng vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau đớn của một kẻ còn nhiều ân hận với đời.

Đôi dòng trong bài thơ “Điên” của Hen McTu có thể nói về ngôi làng này, đó là “nguồn sáng của những tâm hồn đau khổ. Ta tìm thấy dấu vết của một mối tình nào đó vừa chết yểu. trong thơ ta không khác gì nỗi buồn. Dù cay đắng nhưng vẫn dịu dàng. Chỉ trong thơ Hàn Motu ta mới thấy nỗi đau mãnh liệt như thế.

Thơ như máu”. Đọc thơ, ta yêu khát khao được sống và được yêu, yêu đôi mắt đẹp của cuộc đời nhưng cũng xót xa cho số phận của nhà thơ, cuộc đời đau thương khiến Hàn Kết không thể mơ mộng dài lâu , để rồi cuối cùng ta vẫn phải trở về Nơi cô đơn lạnh lẽo, không người thương, không hơi ấm tình người, chờ chết trong đau đớn tuyệt vọng.

Phân tích thơ Đây là làng Vida-Mô hình 11

“Ai mua trăng, tôi bán cho đoàn viên không bán, muốn hẹn hò.”

Nhắc đến vài bài thơ này, hẳn bạn đọc đã quen thuộc với hình ảnh “nửa vầng trăng” của Hàn Mạch. Một nghịch lý, lạ lùng, vì trăng cũng là của chung, của mọi người, cớ sao lại phải “bán”. Tuy nhiên, từ hình ảnh này ta thấy được tấm lòng thủy chung, sắt son của nhà thơ. Sự trung thực này một lần nữa được tái hiện qua bản vi da này. Tác phẩm không chỉ là bức tranh màu nước về cố đô Huế mà còn là những nỗi niềm mà nhà thơ Han Meitu gửi đến một nơi xa.

Mở đầu bài thơ không phải là lời chúc mà là lời trách móc: “Sao anh không về quê chơi?”. Giọng điệu vừa chất vấn, vừa trách móc nhân vật trữ tình không trở về với làng quê, với kỉ niệm. Đoạn thơ còn thể hiện niềm tiếc nuối nhân vật trữ tình không biết cảm nhận vẻ đẹp bình dị.

Nói đến sự tiếc nuối của các cô gái châu Âu cũng phải thôi, bởi với loạt “mỹ nhân” dưới đây, ai lỡ chuyến về sẽ tiếc hùi hụi.

“Nhìn nắng vàng mới rọi vườn nhà ai xanh như lá tre”

Ba câu thơ này đã bước đầu vẽ nên một bức tranh đồng nội thuần khiết và đẹp đẽ. Ở vế thứ hai, tác giả đã khéo léo sử dụng nghĩa của từ “rõ ràng”. Nếu “nắng” ở câu đầu chỉ nơi xảy ra (nắng trên hàng cau) thì “nắng” ở câu hai chỉ thiên nhiên (nắng mới). Khung cảnh làng quê rộng lớn hiện ra trước mắt người đọc là vẻ đẹp của miệt vườn và cảnh làng quê ở ngoại thành. Hàng cau là hình ảnh tiêu biểu nhất của một khu vườn nơi thiên nhiên, nhưng tác giả đã lồng vào hình ảnh này như một “gia vị” của sắc màu một cách tinh tế hơn. Mặt trời trông lạc lõng ở đây – mới. “New Sunshine” có thể hiểu là ánh nắng ban mai, ánh nắng bắt đầu một ngày mới. Nhưng ánh nắng này không chỉ mở ra một ngày mới, mà còn mở ra một mùa xuân tươi mới. “Nắng mới” với động từ “hướng lên” tạo cảm giác sức sống tươi trẻ, và nhà thơ là người may mắn biết trân trọng khoảnh khắc này. Điều đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa ra cả một vùng quê.

Tác giả chuyển hướng nhìn từ “hàng trầu” sang một “đối tượng” khác, đó là khu vườn làng. Từ câu thơ này, có thể thấy cách nhìn của tác giả đã thay đổi. “Khu vườn” hiện ra gần hơn, và tầm nhìn của nhà thơ cũng vậy. Nghệ thuật tu từ “vườn của ai” khơi dậy sự tò mò, tò mò của mọi người, bởi không biết chủ nhân của khu vườn này là ai. Nhưng điều người ta quan tâm không phải là danh tính chủ vườn mà là độ tinh khiết của nó. Tác giả so sánh khu vườn với viên ngọc bích để nói lên sự tinh khiết và xanh tươi của khu vườn vào buổi sáng. Nhìn vào hình ảnh này, tự nhiên người đọc sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, dễ chịu, cơ mắt được thư giãn thực sự. Tuy nhiên, tài năng của Han Motu không chỉ dừng lại ở đó. Tác giả khéo léo “cho” từ “mượt mà” khi miêu tả sắc màu của khu vườn. Từ mang đến cho người đọc cảm giác mượt mà, tròn trịa, thêm mượt mà. Hơn nữa, nó còn chứa dấu cảm thán “quá” khiến khu vườn của làng quê thêm thanh tao. Khiến người đọc phải tò mò đọc thử một lần. Nếu câu thứ hai và câu thứ ba giúp ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì đến câu thứ tư nhà thơ giới thiệu về con người nơi đây. Hình ảnh “khuôn mặt chữ điền” chỉ khuôn mặt nhân hậu, hiền hậu, cũng là cách tác giả giới thiệu tính cách người con gái Huế. Ẩn sau vẻ đẹp ấy là chi tiết “Qua kẽ lá trúc” gợi lên sự e ấp, thẹn thùng của người con gái mơ mộng. Nhờ vậy, lần đầu tiên người đọc có thể nhìn thấy khung cảnh đồng áng hùng vĩ chỉ ngay từ khổ thơ đầu tiên. Ở đây không chỉ có núi non nước trong vắt mà còn có những con người xuất chúng.

Đến với câu thơ thứ hai, người đọc tiếp tục được chứng kiến ​​những câu thơ được “nhà thơ” rút ra. Bức tranh được mở rộng cả về không gian và thời gian.

“Gió theo gió, mây theo mây

Nước sầu, hoa ngô đồng…

Thuyền ai đậu trên sông Trăng,

Đêm nay có chở trăng về được không?

Mở đầu hồi hai, Hàn Mot Tu mở rộng không gian làng quê bằng hình ảnh nhìn xuống. Ở đây, kỹ thuật kết hợp câu ngụ ngôn và ám chỉ của tác giả thật tài tình. “Gió” và “mây” được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác lưu luyến mà là cảm giác chia xa. Bởi vì gió có đường đi của nó, và mây có đường đi của nó. Nếu như câu đầu tác giả gián tiếp nói đến sự chia ly thì câu tiếp theo lại sử dụng động từ “buồn” để nhấn mạnh tâm trạng u uất của cảnh vật. “Sầu” là cảm xúc buồn xen lẫn cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “nước”. Sử dụng biện pháp nhân hóa, tác giả so sánh dòng nước với một sinh vật đang suy tư, ủ rũ. Bức tranh thay đổi mạnh mẽ từ sự trong lành buổi sáng sang nỗi nhớ nhung lúc này. “Hoa ngô đồng” có thể rung rinh khi một cơn gió thoảng qua, làm hiện rõ hơn nỗi buồn, sự cô đơn. Khoảng trống phía trên ngay lập tức được kéo xuống khiến bức ảnh trở nên ấn tượng hơn. Dụng ý của tác giả thực sự rất tuyệt vời, đầu tiên là để nỗi buồn của thiên nhiên nổi lên, khơi dậy trí tò mò và suy nghĩ của độc giả, sau đó là sự suy ngẫm của mọi người.

<3

Nếu câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu mang tính chất trách móc thì khổ thơ này chất chứa một nỗi buồn và một chút ngậm ngùi. Với sự xuất hiện của hình tượng “sông trăng” đã làm xuất hiện những hình ảnh ẩn dụ “con thuyền”, “bến đò”. Sông Hương lúc này đã tràn ngập ánh trăng, cả dòng sông nhuốm ánh vàng. Câu hỏi cuối câu dường như tác giả đang tự hỏi chính mình. Bài thơ thể hiện sự lo lắng khi tác giả mắc phải căn bệnh hiểm nghèo trong hoàn cảnh này. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để đợi trăng về đúng lúc. Câu hỏi này khiến cả chuyên mục rũ rượi! Nhà thơ xót xa cho số phận ngắn ngủi, cho ước mơ không thành.

Vâng! Cũng như phần ba, tác giả tiếp tục sống cho ước mơ của mình

“Mộng Viễn khách phương xa đến, áo trắng sương sa, ai biết được tình sâu”

Thời gian này tác giả đang sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa được nhấn mạnh hai lần phần nào nói lên nỗi nhớ nhung, mong nhớ của tác giả đối với người mình yêu. Theo một số tài liệu, trong thời gian làm việc tại Quy Nhơn, Hàn Mộ Tử đã phải lòng và thương nhớ một cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con của ông trùm. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo. Khi cô trở lại Qui Nhơn, gia đình cô cũng trở lại Vida (Huế). Theo gợi ý của một người bạn lúc nhà thơ đang bệnh, bà Cooke đã gửi cho nhà thơ tấm ảnh bà trong tà áo dài trắng, cùng hình ảnh sông nước, bến đò, thuyền bè. Nhà thơ rất vui khi nhận được bức tranh đó. Chính vì vậy, hình ảnh “áo em trắng quá” có thể bắt nguồn từ bức ảnh áo sơ mi trắng của Hoàng Thị Kim Cúc. Tuy nhiên, màu trắng đó lại “tàng hình”. Người ta nói rằng khi tác giả bị bệnh, đôi mắt của ông không tốt và ông không thể nhìn rõ. Vì vậy, màu trắng này là một màu kỳ lạ hay nó trông xuống cấp?

“Ở đây ngắm hoa trong sương, ai biết tình ai bền”

Phần thứ ba của phần trước mô tả chính xác không gian sắc độ. Đồng quê chìm trong màn sương mờ ảo, trắng xóa vạn vật kể cả “bóng hình”. Con người dường như cũng đang ẩn mình sau màn sương mù. Vừa có cảm giác thực, vừa có cảm giác ảo, tác giả như lạc vào sau “bức màn trắng”, một thế giới huyền bí mà mọi vật đều khó nhìn rõ. Có lẽ ý tứ và tình cảm của tác giả đều chứa đựng trong đoạn cuối. Tiếp tục hỏi “Biết tình ai giàu?”. Khi nhà thơ hỏi nhau, cũng như tự hỏi lòng mình rằng tình yêu ấy có còn “mạnh mẽ” như xưa không. Liệu người cũ có còn giữ tình xưa? Đọc đoạn thơ này, người đọc sẽ không biết người hỏi và người bị hỏi là ai. Tuy nhiên, điều mà mọi người chú ý là tình cảm là vĩnh viễn, và mọi người vẫn giữ một chút niềm tin của riêng mình trong trái tim. Đó là tất cả một bí ẩn!

Bằng việc vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật như điệp ngữ, cấu trúc điệp ngữ, câu hỏi tu từ… người đọc có dịp được chứng kiến ​​những đường bút tài hoa và sự mềm mại của bức tranh một cách sống động và trìu mến nhất. p>

Với bài thơ “Làng Vida Hàn Mai Tử”, người đọc như được đưa vào không gian huyền ảo của xứ Huế, đặc biệt là khung cảnh Làng Vida. Cảnh nên thơ trữ tình, tình yêu đắm say, tôi nhớ tác giả đã từng tỏ tình với cô gái Huế mà ông thầm nhặt. Tình cảm có phần mỉa mai, thủy chung nhưng lại bất an, lo lắng rằng “cố nhân” vẫn còn níu kéo tình cảm cũ. Tình cảm ấy sống mãi và trở thành câu hỏi không nguôi trong tâm trí người viết cũng như người đọc.

Phân tích thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 12

Nếu nhà thơ Xuandie là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, và Hu Yan được gọi là “nhà thơ cổ điển nhất trong số các nhà thơ mới”, thì Han Mutu được gọi là “nhà thơ đặc biệt nhất trong số các nhà thơ mới”. Có thể nói, Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ rất đặc sắc trong văn học Việt Nam, điều đó được thể hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ” – một bài thơ hay chứa đựng những cảm xúc của nhà thơ.

Số phận của Han Motu thật nghiệt ngã và bi thảm. Cha anh mất sớm, anh sống với mẹ ở Quy Nhơn. Năm 24 tuổi (1936), ngài mắc bệnh phong và về Quiren chữa trị. Ông mất trẻ: mới 28 tuổi (1940). Sự nghiệt ngã của số phận đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn thơ của ông. Han Ketu là một nhà thơ thơ mộng và đẹp như tranh vẽ, có một sự gắn bó thiết tha với cuộc sống. Ông được coi là một trong ba đỉnh cao của thơ mới.

Khi sự nghiệp đang thăng hoa, anh phát hiện mình mắc bệnh phong. Khi biết tin, ông nội đơn phương Hoàng Thị Kim Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh có hình thôn Vĩ Dạ. Có thể nói, tấm bưu ảnh và lời chúc của cô đã gợi cảm hứng cho nhà thơ viết về làng, thể hiện tình yêu cuộc sống và tâm trạng của mình trong gian khổ. Tuy nhiên, khi tìm hiểu bài thơ này, chúng ta không nên tập trung vào mối tình đơn phương của nhà thơ mà hãy lấy đó làm cái cớ để nhà thơ bộc lộ tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người.

Khổ thơ 1 của bài thơ trình bày cảnh thiên nhiên đất nước buổi bình minh. Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi:

“Sao em không về làng chơi?”

r Câu hỏi tu từ kết hợp với một loạt vần bằng không chỉ là lời trách móc, hờn dỗi mà còn là lời mời gọi tha thiết của cô gái quê với chàng trai. Nhưng cũng có thể là thắc mắc tại sao bạn không về thăm Làng Vĩ. Dù thế nào cũng là niềm khao khát thầm kín, khao khát được trở lại Đắcun, thăm lại cảnh cũ, người xưa. Cảnh đẹp thôn quê hiện ra trong tâm trí nhà thơ:

“Nhìn Nắng Mới”

Vườn ai xanh như ngọc

Từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới” gợi hình ảnh ánh nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khiết. Nhà thơ sử dụng từ “mượt” và tình thái của từ “quá” để bày tỏ sự ngưỡng mộ, thiết tha của mình trước một khu vườn mượt mà, rực rỡ sắc màu. Đại từ nhân xưng “ai” làm cho bài thơ như một lời than thở, vườn của ai, chắc nhà thơ cũng không nhớ, chỉ biết vườn đẹp quá, nắng lên cao trên những cây đỗ quyên, len lỏi. Trèo lên mọi ngóc ngách của khu vườn để tạo nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Lúc này, vườn làng xinh đẹp như một viên ngọc xanh rải rác, tỏa ánh ban mai. Một bóng người xinh đẹp đột nhiên xuất hiện:

“Lá tre che mặt”

Đó là phông chữ của ai? Đó là gương mặt của dân làng, hay gương mặt của cô gái trong lòng tôi, hay gương mặt của chính tác giả? Có phải tác giả đã nhân bản chính mình trở lại trong vườn? Dù bằng cách nào, nó cũng là biểu tượng của sự dịu dàng, lòng tốt và vẻ đẹp. Khuôn mặt ấy còn được “che phủ” bởi những lá tre, những chiếc lá tre thanh mảnh gợi lên vẻ đẹp thận trọng, dịu dàng của người Huế. Đoạn thơ giàu ẩn dụ, toát lên vẻ đẹp tiềm ẩn, dịu dàng của cảnh sắc thiên nhiên và con người xứ Huế. Dưới ánh nắng, khung cảnh vườn làng bình dị và thuần khiết, đơn giản và tinh tế, và hướng đến thế giới thực. Thông qua việc miêu tả thiên nhiên, tác giả như thể hiện sự gặp gỡ và cộng hưởng của mình với vẻ đẹp của thế giới.

Từ bức tranh buổi sáng sớm ở đoạn đầu, tác giả đã chuyển hướng nhìn sang cảnh đẹp của dòng sông trong một đêm trăng. Từ sáng đến tối, từ những khu vườn nông thôn đến dòng sông Moon, từ những cảnh thực tế đến bầu không khí huyền ảo, góc nhìn liên tục thay đổi. Gợi sự chia ly qua hình ảnh và nhịp điệu:

“Gió theo gió, mây theo mây

Nước buồn và nhầy nhụa”

Hình ảnh “gió đi theo gió, mây đi theo mây” là một sự ngăn cách phi lí và éo le. Tác giả nhận ra nó không phải bằng thị giác mà bằng một phức cảm phân ly. Tác giả cũng nhân hóa dòng nước chảy để nhấn mạnh nỗi buồn bên cạnh sự bâng khuâng, chia ly, hoài niệm vô vọng. Chủ thể trữ tình dường như cảm nhận được tình cảnh bị bỏ rơi bên bờ vực của sự lãng quên. Ngoài ra, nhịp độ có thể trở nên kỳ lạ khi sử dụng nhịp 4/3. Mỗi chủ đề được biệt lập theo một nhịp điệu riêng, làm nổi bật sự chia ly. Hình ảnh và nhịp điệu đan xen, khiến cho cuộc chia tay Fengyun trở nên gay gắt hơn và khơi dậy những cảm xúc đau đớn. Tác giả phải thốt lên:

“Thuyền ai đậu trên sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không? “

Từ “đúng giờ” như ngăn cách hai bên, như sự bấn loạn vào giây phút cuối cùng của cuộc đời. Từ “đêm nay” là một thực tế phũ phàng. Cảm giác xa cách đã thấm vào mọi thứ. Nhưng dường như khát vọng trường tồn của nhà thơ vẫn còn đó, bởi chỉ có trăng chảy ngược dòng chảy của “mây”, “gió”…, còn từ “kịp” mang ý nghĩa xao xuyến, khắc khoải, khắc khoải. khao khát, được thực hiện. Đó là một sự gắn bó đau đớn, mãnh liệt nhưng vô vọng.

Bức tranh tâm trạng của tác giả xuất hiện ở đoạn 3:

“Khách hàng mơ ước, khách hàng phương xa

Áo của tôi trắng quá không nhìn thấy”

Tác giả dường như đã rơi vào trạng thái vô thức, rơi vào cõi mộng. Điệp ngữ “người lữ khách phương xa” nhấn mạnh nỗi niềm tiếc thương của nhà thơ, một bóng hình đẹp đẽ xa cách không thể gặp lại. Ở đây, tác giả đã có sự trắng trợn tột độ, trắng ra một cách lạ lùng, bất ngờ. Nó không còn là màu của thực tại, mà là màu của tâm hồn.

“Ở đây có sương mù”

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

“Nơi đây” dường như là hiện thực, một trại phong nơi tác giả bị cách ly với thế giới bên ngoài. Lớp từ láy như “sương khói”, “mờ ảo” nhấn mạnh sự tàn phai, phù phiếm, chân thực bởi đây chính là ước mơ của tác giả, mong được kết nối với cuộc đời nhưng không thể. Đó là một bi kịch thực sự mà nhà thơ dường như bị đày ải, xa rời thế giới bên ngoài. Đại từ phiếm chỉ “ai” được lặp lại hai lần như một tiếng gọi đầy hoài bão, còn “người lữ khách phương xa” thấp thoáng, chập chờn. Những câu hỏi tu từ mang cảm xúc cô đơn, nghi ngờ và buồn bã. Đó là tâm hồn khao khát tình yêu, sự hòa hợp và đồng cảm.

Bản này không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn thể hiện tài năng của Hàn Kết Đồ thông qua nghệ thuật trong các tác phẩm của ông. Hình ảnh thơ rất độc đáo và giàu sức gợi. Ngôn ngữ thơ trong sáng, tinh tế, giàu sức liên tưởng. Âm điệu, nhịp thơ tinh tế, tha thiết. Tác giả sử dụng nghệ thuật liên tưởng, so sánh, nhân hóa, hoán dụ. Giọng điệu vấn vương bao trùm toàn bài thơ, với sự lưu luyến, tha thiết của hồn thơ tràn đầy khao khát sống.

Kết thúc bài viết này, tôi xin dùng lời của nhà thơ Chế Lan Vĩ để miêu tả về tài năng của Hàn Một Đồ: “Không tiền không hậu, Hàn Một Đồ như sao chổi vụt qua bầu trời. Cái đuôi của Việt Nam là rực rỡ. Tôi mong bạn Bảo đảm, trong tương lai, những tầm thường và tiêu chuẩn đó sẽ biến mất, và những gì còn lại là nhịp đập lạnh lùng của thời đại này.”

Phân tích thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 13

Có một lí do rất đặc biệt cho sự ra đời của bài thơ Làng Vida. Khi Han Motu bị bệnh nặng và đang chờ đợi giây phút chết ở Quirengui và trại phong, nhà thơ bất ngờ nhận được một tấm bưu thiếp từ người bạn gái Huangshi Jinju cùng làng. tuyệt vời. Tấm bưu ảnh đó có dòng sông, đêm trăng, con thuyền và bến tàu. Mặt sau có đôi lời chúc an ủi nhà thơ đang bệnh nặng.

Đối với người bình thường, tấm bưu thiếp chỉ là một mối quan hệ xã giao, nhưng đối với Hàn Kết Đồ, nó có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó khiến nhà thơ yêu người trong mộng bằng tình yêu trong trái tim mình. Thế là kiệt tác “Đây làng Vida” ra đời.

Buổi học đầu tiên bắt đầu bằng câu hỏi của một cô gái.

“Sao em không về làng chơi?”

Thực ra đây là lời quở trách tình yêu, là lời hờn giận vu vơ trước nỗi nhớ nhung của cô gái quê mùa. Nhưng trên thực tế, không có cuộc đối đầu trực tiếp với cô gái đến từ Han Motu. Những lời dịu dàng và ngọt ngào đó là những từ trên tấm bưu thiếp đó, được kích động, trở nên sống động, biến thành giai điệu và kể.

Quý 2 chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, bởi vì vừa mới thốt ra lời đó, Hàn Kết Đồ lập tức xuất hiện trong không gian của Làng Vida. Rõ ràng, đây là một hành trình tâm linh.

“Ngắm mặt trời mới mọc”

Từ “Thanh” xuất hiện trong bài thơ này. Một tia nắng được phát hiện được miêu tả như “hàng trầu nhìn nắng”, một thứ năng lượng mới tinh khôi, khiến nhà thơ khóc “mặt trời vừa mọc” như một đứa trẻ. Đây không phải là ánh nắng mà chúng ta nhìn thấy hàng ngày. Đây là một loại ánh sáng mặt trời rất mới, vì nó xuất hiện vào lúc bình minh. Nó thắp sáng cây trầu.

Từ trước đến nay, người ta cho rằng quan điểm của Hàn Motu là từ xa đến gần. Du khách có thể nhìn thấy ánh nắng trên những cây trầu, và càng đến gần khu vườn, bạn càng có thể nhìn thấy màu xanh của cây cối. Trên thực tế, khi ý thức của anh ấy trở lại, hoàn toàn không cần phải đi như thế này. Đôi mắt của Han Motu ở trên cao, và rơi vào khu vườn xinh đẹp của ngôi làng. Nhà thơ xé đôi bầu trời đen kịt để ngắm bình minh huyền diệu từ làng Vida. Một không gian với người mình yêu là một khu vườn địa đàng, nơi có nhiều điều kỳ diệu trong truyện cổ tích. Về quê là để trút nỗi đau, nỗi niềm. Kết quả là, ý thức của Han Ketu rơi vào khu vườn của làng.

Trong câu thơ “vườn ai xanh như ngọc” có hai câu cảm thán và cảm thán. Với “vườn ai thanh bình” cũng thấy “phẳng” có nghĩa là “xanh như ngọc”. Tất cả đều còn non và xanh mướt, từng chiếc lá ở đây xanh như ngọc bích. Nó không chỉ mang đến cho chúng ta trải nghiệm thị giác mà còn cho chúng ta cảm giác như những chiếc lá ngọc bích va chạm vào nhau.

“Lá tre che mặt”

Phần cuối cùng của phần đầu tiên là phần có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” là khuôn mặt của cô gái mời Hàn Kết Đô về làng chơi. Bởi vì Khu vườn của ai là khu vườn của tôi, thật hợp lý khi nhìn thấy khuôn mặt của tôi trong khu vườn đó. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên-bạn của Hàn Mặc Tử không hài lòng với cách hiểu này, ông cho rằng mặt nhồi bông có thể không xấu nhưng chắc chắn là mặt không đạt tiêu chuẩn thẩm mỹ của cách gõ tiếng Việt. giá quần áo. Cũng có câu nói “đắp mặt” là viên gạch hình vuông thường được dùng trên các bức bình phong của các ngôi nhà ở Làng Mí.

Thật ra, đọc thơ Hàn, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình ảnh, thế giới lạ lùng. Nhà thơ gặp nhau trong quá khứ và tương lai là chuyện thường tình. Vì vậy, dù không thể tin được, Han Mektu đã gặp lại chính mình, một học giả tài năng nổi tiếng ở Huế, một lần nữa tại đây. Nếu một nhà thơ muốn nói về một tình yêu trong sáng, êm đềm và say đắm thì phải quay ngược về quá khứ, là một nhà thơ đa tình trong thời đại Huế. Nói đúng ra, nhà thơ muốn quên đi cái tôi hiện tại đang lâm trọng bệnh để được yêu. Hình ảnh “lá trúc vượt qua” làm cho diện mạo của kiểu chữ này đậm nét tự do, phóng khoáng, cương nghị và nam tính. Lá tre theo quan niệm xưa là biểu hiện của người quân tử.

Nếu như khổ thơ đầu cho ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai lại gợi cho ta ấn tượng về không gian rộng mở bên ngoài làng Vida vào buổi chiều, rồi đến cảnh sông nước lúc chiều tà. Con tàu dưới ánh trăng. Cả bốn dòng đều có phần gợi nhớ đến phong cảnh xứ Huế, nhưng thực ra các hình ảnh đó đều tồn tại trong mối quan hệ mâu thuẫn, trái tự nhiên.

“Gió theo gió, mây theo mây”

Câu thơ thứ hai không chỉ là một nghịch lý mà còn là một sự mỉa mai. Lẽ tự nhiên, khi hoa ngô di chuyển, mặt nước phải lăn tăn gợn sóng. Tuy nhiên, ở đây, chỉ có hoa ngô di chuyển bằng chân, để nước tự chảy. Thay vì đứng bên nhau trao cho nhau bao đắng cay sầu đau, thà xa mặt cách lòng như gió thoảng mây bay.

Nếu như quý 1 chúng ta cảm nhận được một tình yêu đẹp sắp chớm nở thì sang quý 2 lại gặp phải tình yêu tan vỡ. Với lối ăn nói bốc lửa, Hàn Kết Đồ đã chua ngoa từ chối người mời mình đến làng Cao. Đây là câu chuyện về một người phụ nữ đã thất hứa và làm tan nát trái tim của một người cả tin ngu ngốc.

Người tình trong mộng của Hàn Mặc Đồ, có lúc mời gọi, chuẩn bị cho một thế giới tình yêu đang chờ đợi, có lúc lại trở thành kẻ si tình tàn nhẫn. Đột nhiên, người đó bỗng trở nên tốt bụng và hào phóng như vậy.

<3

Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhiều lần trong thơ ca Hàn. Mặt trăng vĩnh cửu là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là của các cặp vợ chồng. Vì khao khát hạnh phúc nên hai bài thơ của Hàn Kết Đồ tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, cõng trăng.

Chữ “Ái” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Kết Đồ đến Ngụy thôn. Anh dựng thuyền bên sông chờ bao ánh trăng vui, đêm nay mang trăng về cho thi nhân. Đó là một tình yêu cao cả, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của Hàn Kết. Nhưng chữ “kịp” ở đây treo lơ lửng một câu hỏi: Đêm nay trăng có về kịp không? Có lẽ kip, có thể không nữa… Đêm nay là một khái niệm thời gian thoáng qua. Hàn Kết Đồ biết rằng, hạnh phúc trong đời chỉ còn lại rất ngắn ngủi, sẽ luôn có người mang lại hạnh phúc cho thi nhân, nhưng nếu đến quá muộn thì hạnh phúc cũng trở nên vô nghĩa.

“Ta mơ khách phương xa, khách phương xa”

Khởi đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ rất đặc sắc. Người khách đã là khách lạ, và nhà thơ còn lặp lại sự lạ lùng này hai lần: “khách đường xa, khách khách đường xa”. Nhưng lại mơ thấy vị khách vô danh. Thực ra đây chính là người đã mời Hàn Kết Đồ đến thăm Ngụy thôn, nhưng nhà thơ hiểu rằng người này nằm ngoài tầm với của mình. Con người ấy ngày càng trở nên xa lạ, càng ngày càng không thể cố chấp, để rồi ta càng phó thác cho ước mơ của mình. Có thể thấy tình cảm này trong các bài thơ khác của Hàn Quốc:

“Người ra đi không níu giữ được tình yêu. Tôi chưa từng yêu ai. Nửa hồn đã mất, nửa hồn đã về với dại khờ.”

Vì muốn tìm được tình yêu trong mơ vào giây phút cuối đời để sống thật ý nghĩa, Hàn Kết Đồ luôn mang tâm trạng ngược lại. Lúc thì hi vọng, lúc thì trách móc vì nghĩ người mình yêu ngoại tình, sau đó, nhà thơ thấy được lòng chung thủy của người con gái đã mời mình đến làng Nhạc chơi, bèn chuẩn bị đóng thuyền chờ ánh trăng vui đến. Tiếp đó, Han Motu tuyệt vọng nhìn người yêu như “khách phương xa”. Nhưng không lâu sau, nhà thơ lại thấy người con gái ấy trở lại với mình, người con gái hoàn toàn trong sáng và thánh thiện. Đại từ “em” thật dễ dàng và thật gần gũi:

“Áo của tôi trắng quá không nhìn thấy”

Những câu thơ vừa thắp lên hi vọng lại khiến Hàn Motu cảm thấy tuyệt vọng. “Áo anh trắng quá”, lẽ ra tôi phải nhìn rõ. Nhưng áo sơ mi của bạn càng trắng, tôi càng ít nhìn thấy nó. Thật ra anh không dám nhìn em vì em quá trong sáng, tiêu chuẩn cao…Tình yêu quy định tội lỗi. Nhưng yêu như một kẻ nhẫn tâm để rồi mặc cảm là do cuộc sống của chính mình. Nhà thơ thấu hiểu thực tại của mình nên dù chữ “em” có quay lại với anh, nhà thơ cũng không dám yêu. Han Motu đã phải kiềm chế bản thân với tình yêu.

Câu thứ ba chứa đựng triết lý nhân sinh bi quan:

“Ở đây có sương mù”

nguyen gia thieu đã viết:

“Con quay hồi chuyển đã ở trên bầu trời

Hình ảnh mờ giống như một người đang đi trong đêm”

Cuộc đời như con quay, chúng ta không thể làm chủ vận mệnh của chính mình. Trong mối quan hệ của chúng ta với những người khác, chúng ta chỉ có thể nắm bắt được “hình ảnh” chứ không phải chính con người. Hàn Kết Đồ cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không thể chủ động, không thể nhìn rõ hình ảnh người yêu. Nhà thơ hiểu rằng sương khói cuộc đời đang làm mờ đi “hình ảnh” của chữ “em”… một nhận thức cay đắng và đáng thương để lại một khoảng trống như sa mạc trong tâm hồn Hàn. Mặc cho đến chết. Đây là điều khiến nhà thơ đặt ra một câu hỏi vô vọng về hư không:

“Ai biết tình ai giàu?”

Hai đại từ “ai” trong câu thơ này gợi ra nhiều cách hiểu: Biết đâu em có hiểu tình mình bền chặt nhường nào? Tôi tự hỏi bản thân anh ấy có biết tình yêu của mình mạnh mẽ đến mức nào không? Bạn có biết tình yêu của tôi mạnh mẽ như thế nào không? Bạn có biết tình yêu của tôi là mạnh mẽ? Có quá nhiều câu hỏi ẩn sau một câu hỏi trong bài thơ, càng hỏi càng thấy “bối rối” và tuyệt vọng. Tình yêu càng nghiêm túc, càng phong phú thì tôi càng thấy sự đổ vỡ với tình yêu là tuyệt vọng. Vì vậy cảm hứng chủ đạo của làng là cảm hứng da diết của tình yêu tuyệt vọng.

Mọi tuyệt vọng đều khiến người ta bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Kết Đồ dạy cho chúng ta những giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ bám lấy cuộc đời này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không có được sự khốn nạn của Hen McToo, nên chúng ta cần phải biết sống, biết yêu trong cuộc đời tốt đẹp đáng sống trên trần gian này.

Phân tích thơ Đây là làng Vida-Mô hình 14

Phần đầu về vẻ đẹp của cảnh vật và quan niệm nghệ thuật của tác giả

Khổ đầu của bài thơ thể hiện hai chi tiết đan xen vào nhau, một là vẻ đẹp của bức tranh phong cảnh và một là tâm trạng của tác giả. Bức tranh tắm mình trong ánh ban mai vào ban đêm toát lên một vẻ đẹp vô cùng trong sáng, dịu dàng.Trong khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ nhớ nhung, hoài niệm, tiếc nuối và thoáng chút sầu. Tất cả hòa quyện vào nhau làm nên bức tranh thiên nhiên đầy kỳ ảo.

Câu thơ đầu có thể hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có thể đó là dụng ý của tác giả rằng cô gái yêu mình, điều này tạo nên một lời mời chân thành đến tác giả (hãy ghé thăm), nhưng cũng là một kiểu trách móc, tức giận (bạn có nhớ không). Đó cũng có thể coi là lời tự vấn của tác giả: sao không về Làng Gạo?

Dù hiểu theo cách nào thì cũng có thể thấy rằng bài thơ này là một tình yêu và nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả. Hành vi trơ trẽn này đã được gọi vào câu hỏi. Có một bóng đen ẩn trong câu hỏi nghiêm túc ấy, tuy hư ảo, nhưng mong manh và đau đớn. Ẩn trong sâu thẳm của sự tiếc nuối và hoài niệm là ước muốn được một lần đến thăm Vader. Nếu chúng ta hiểu cuộc đời của Han Meizi, chúng ta sẽ biết khao khát cuộc sống bình thường của Han Meizi lớn đến mức nào. Bài thơ như gợi lên sự thương cảm, xót xa, xót xa cho số phận.

Làng Vida hiện ra với một vẻ đẹp vừa thực vừa mộng, nắng, trầu, vườn, lũy tre lá, một từ chứa hàng loạt hình ảnh. Điều làm tôi ấn tượng nhất là cảnh khu vườn tắm mình trong ánh nắng ban mai. Thông qua nghệ thuật nâng cấp. Han Meitu muốn nhấn mạnh hình ảnh mặt trời: “Nắng là trầu, nắng mới mọc”. Mặt trời mọc là ánh nắng ban mai, là ánh nắng thuần khiết, non nớt, dịu dàng và trong suốt như pha lê, tắm mình trong lá cây bị sương đêm làm ướt, phản chiếu một mảnh trong suốt như pha lê. Hai chữ nắng đặt cạnh nhau làm cho nắng lay động trên kẽ lá. Đây là một cách cảm nhận và mô tả rất tinh tế về dòng chảy kinh nguyệt lạnh. Hình ảnh trầu cau một nắng đặt ra bao câu hỏi. Vì sao tác giả chỉ chọn cây trầu bà trong vườn để tả nắng? Trầu có phải là loài cây cao nhất trong vườn nên đón được những tia nắng ban mai dịu dàng đầu tiên hay bây giờ mối duyên không thành chỉ có trầu mà không có trầu? Có thể thấy, ngoài vẻ đẹp của bình minh, bài thơ còn chất chứa nỗi niềm đa sầu đa cảm của Hàn Mặc Tử.

Vì mặt trời vừa mọc, lá còn đọng sương đêm nên khu vườn xanh như ngọc bích. Câu thơ vừa là câu hỏi (vườn này của ai?) vừa là lời bình luận, ngợi ca (trôi chảy, xanh như ngọc). Các chữ cái bóng toát lên vẻ thẩm mỹ bóng bẩy, óng ánh. Những khu vườn rộng lớn lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng và tràn ngập màu sắc. Hình ảnh thơ giản dị mà lộng lẫy, giản dị mà tinh tế, giản dị mà sang trọng.

Một từ đặc biệt ai xuất hiện trong phần thứ ba. Chữ ai vừa bất định vừa chắc chắn, vừa giả vừa thực, vừa gần vừa xa. Hàn Mặc Tử đã rất thành công trong việc ảo hóa những khung cảnh rất chân thực và khiến chúng trở nên phi thực tế đến mức chỉ có thể nhìn thấy trong trí tưởng tượng.

Nổi bật nhất

trong phần thứ tư là hình ảnh khuôn mặt với hình ảnh điền từ. Không dễ để hiểu được hình ảnh này vì có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, hình ảnh trên có nhiều yếu tố cách điệu. han meo tu sử dụng các yếu tố cách điệu để thể hiện sự hài hòa vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, một vẻ đẹp hài hòa rất riêng của Huế với cảnh vật và con người xứ Huế.

Những câu thơ chất chứa nhiều tâm trạng, cảm xúc của người Hàn Kinh. Có hai câu hỏi ở đầu và cuối (Tại sao lại là bạn? Người làm vườn?) nhưng không có câu trả lời. Đây là một dấu hỏi lớn trong đầu tôi, và tác giả cũng chưa tìm ra câu trả lời.

Mơ hồ, đầy hư ảo về cảnh sắc thiên nhiên và con người

Toàn bộ bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh mặt trời mọc dịu dàng, đến khổ thơ thứ hai thì bất ngờ xuất hiện trong một đêm trăng huyền ảo. Quý thứ hai dường như được bao phủ bởi những màu sắc không thực.

Hai câu đầu của đoạn hai vẽ nên một chuỗi hình ảnh (gió theo gió, mây theo mây, nước buồn, hoa thung) như khoét sâu nỗi buồn của nhà thơ, mênh mông và thăm thẳm. nỗi buồn trên đất Huế. Thông tin về gió và mây không nhằm nhấn mạnh sức mạnh hay sắc thái của gió và mây mà nhằm thể hiện sự tách biệt của gió và mây trong môi trường tự nhiên.

Giá trị của dòng thứ hai nằm ở hai chữ buồn ở giữa câu thơ. Đây không chỉ là nỗi buồn của nước chảy lặng lẽ vươn bông ngô đồng, mà còn là nỗi buồn của một người có nhiều tâm sự. Những con chữ đặt trong hoàn cảnh này toát lên vẻ hiu quạnh, ảnh hưởng đến tất cả khung cảnh xung quanh, khiến ai nấy như mang một nỗi buồn man mác.

Cả hai câu thơ đều có một nỗi buồn hoang vắng, man mác, khó tả, không tả được. Ở hai khổ thơ tiếp theo, sửa lại nỗi buồn này đã đưa nhà thơ vào một thế giới hư ảo:

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không?

Hình ảnh dòng sông Trăng và những con thuyền chở trăng trên sông tuy mờ ảo nhưng rất hữu tình. Những hình ảnh chân thực, hiện thực được Hàn Mỗ khắc họa một cách tinh tế, khéo léo. Nước tắm mình trong ánh trăng sáng bỗng rung chuyển thành dòng, hay ánh trăng tan chảy thành dòng? Ánh trăng lấp lánh, huyền ảo. Hình ảnh con thuyền chở ánh trăng nhẹ nhàng lướt trên dòng sông trăng se duyên với thời gian là một bức tranh thần tiên. Những hình ảnh như vậy thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ Hàn Mot Tu. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới khác, một thế giới của những mạch máu lạnh lẽo thuộc về chính mình.

Hai câu thơ tạo thành hai câu hỏi: ”Tàu của ai? Tiếp tục đi ngược trăng đêm nay? Từ ngữ gây ra sự lo lắng, mơ hồ và chờ đợi. Từ đêm nay không ám chỉ một thời gian cụ thể, nhưng nếu không có thì chắc sẽ không có một đêm nào khác. Đoạn thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau thương và mất mát. Có vẻ như những người hy vọng đang chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu và sự sống. Đường nét trong câu thơ vội gợi cho ta sự vội vàng, vội vã của mùa xuân diệu kỳ. Nhưng trong trường hợp này, kinh tuyến lại khác. Han Miaozi không có sức sống mãnh liệt, nhưng tràn đầy nhiệt huyết như ma thuật mùa xuân: anh ấy đang chạy đua với thời gian, bởi vì anh ấy biết rằng cuộc sống của anh ấy sẽ không kéo dài.

Có thể đêm mai, một mặt trăng khác sẽ lặn, và một con tàu khác sẽ không bao giờ mang mặt trăng trở lại đúng lúc. Một hình ảnh thơ rất ảo mà rất thực. Cái thực là hoàn cảnh đau thương của tác giả.

Toàn bộ khung cảnh trong phần hai là một thế giới ảo. Tâm hồn nhà thơ như rơi xuống vực thẳm. Có những cuộc hẹn, những chờ đợi, một tia hy vọng và cả sự ghẻ lạnh, những thất vọng đầy hy vọng và cả những nỗi đau của chính cuộc đời tác giả.

Tâm trạng của tác giả ở đoạn thứ ba

Tiếng nói lo âu ở hồi hai trở nên cấp bách, gấp gáp ở hồi ba. Tác giả dần đối mặt với chính mình trong ảo giác, đối mặt với hiện thực của bóng hình xinh đẹp:

Mộng khách xa, khách xa.

Áo của tôi trắng quá

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Từ “lữ khách” xuất hiện hai lần, kết hợp với từ “mộng” ở đầu câu thơ thể hiện một nỗi băn khoăn gần như tuyệt vọng. Bóng hình xinh đẹp vừa xuất hiện bỗng hóa thành bóng ma, bởi vì đó chỉ là bóng hình trong mộng. Hình tượng người đẹp trong thơ Hán Mot Tu luôn tượng trưng cho sự trong trắng, trinh nguyên. Vì vậy, sơ mi trắng dường như là một nỗi ám ảnh kỳ lạ. Cụm từ “không thể nhìn thấy” chỉ được sử dụng để mô tả những màu trắng kỳ lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu thực mà là màu của tâm hồn thi nhân chìm vào hồn và thấy màu nhớ. Câu này là một ảo tưởng bất ngờ nhưng hợp lý. Sự trong trắng của thiên nhiên lấn át mọi cảm xúc khiến bài thơ tả cảnh thiên nhiên trở thành một bài thơ tình, một thứ tình yêu đơn phương. Đây là một tình yêu đẹp trong ký ức.

Hai câu kết đưa người đọc vào cõi tâm linh. đây là đâu Phải chăng điều nhà thơ nhìn thấy sau tấm bưu ảnh là một đêm tuyệt vời của một tuổi thơ tươi đẹp? Hay ở đây nhà thơ ôm nỗi nhớ thương trong cô tịch? Có thể từ đây trong làng này là không gian của thế giới bên ngoài, và từ đây trong khổ thơ cuối là thế giới bên trong. Giữa hai thế giới cách nhau một khoảng cách tuyệt vọng.

Cả bài thơ tập trung ở câu cuối: Ai biết tình ai đậm đà? Hai từ lặp đi lặp lại thể hiện một tâm trạng buồn man mác, trong đó có một kiểu cầu nguyện, một kiểu tự an ủi bản thân, tuy không còn hi vọng nhưng biết yêu một người một chút cũng đủ. Có lẽ câu cuối là câu trả lời cho câu đầu: Biết đâu tình ta có đủ bền để về làng chơi? Thực ra, có ai hỏi Hàn Mật ở đâu không, chắc có người yêu? Tác giả sống trong ảo mộng. Nhiệt huyết yêu đời biến thành những câu hỏi băn khoăn cứ quẩn quanh trong đầu người đọc như một vòng xoáy. Vì suy cho cùng, nỗi đau là biểu hiện tột cùng của sự khao khát một tình yêu không thành. Một người đàn ông không yêu cuộc sống một cách nghiêm túc sẽ không đau khổ nhiều khi tinh thần của anh ta cảm thấy rằng anh ta đang chết.

Tứ thơ và phong cách sáng tác của nhà thơ

Có bốn bài thơ ở đây. Có hai đặc điểm của Làng Weida:

Mở đầu bài thơ là câu thơ tự hỏi và tự trả lời: Sao em không về ngoại chơi? Ở 11 câu tiếp theo, tác giả tự mình trả lời câu hỏi này bằng hình ảnh, ý tứ thơ. Đây là bốn câu thơ thể hiện tâm trạng của tác giả.

Cả bài thơ là một khối thống nhất, có sự liên kết logic nội tại trong quan niệm nghệ thuật của nhà thơ, nhưng giữa ba khổ thơ, thế tứ và hình tượng thơ có sự thay đổi: bắt đầu từ khung cảnh đồng quê trong các khổ thơ. Đến bến đò trăng sông trăng ở vế thứ hai, rồi đến cảnh áo trắng ở vế thứ ba.

Bút pháp của Hàn Mot Tu trong bài thơ này thuộc phong cách trữ tình, thiên về miêu tả, kết hợp hình ảnh biểu đạt nội tâm để bộc lộ cảm xúc của bản thân.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 15

Hàn Kết Đồ là một trong những cây bút “tài hoa” nhất trong Phong trào Thơ mới 1932 – 1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong số đó, tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Làng Weida” – tập thơ độc đáo trong sự nghiệp văn chương của ông. Đoạn thơ vẽ nên một bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, trong lành của xứ Huế, khắc họa một tâm trạng tự sự yêu đời, khao khát đồng cảm với cuộc đời, con người nhưng chất chứa nhiều ưu tư, trăn trở. trở lại.

Hỏi ngược: “Sao anh không vào làng chơi?” Như một lời trách móc nhẹ nhàng của một cô gái Huế, nhưng cũng như một lời mời gọi chân tình. Đằng sau lời trách móc nhẹ nhàng là lời mời thân tình và chân thành: “Vào chơi nhé”. Ở đây tác giả không dùng từ “phỏng vấn” mà dùng từ “chơi”, đủ thấy sự ân cần, chân chất, giản dị, khiến người ta cảm thấy gần gũi, thân thiết. Và dường như đó cũng chính là câu hỏi mà nhà thơ đang tự vấn, tự trách mình đã bao lâu không trở về quê hương, để rồi giờ đây trong cơn bệnh tật chỉ còn lại sự ân hận, trăn trở. . Tất cả niềm khao khát được trở về với chiếc đuôi thân yêu đều chất chứa trong câu thơ.

Từ trong ký ức, nối tiếp nhau, cảnh thôn quê dần hiện ra trước mắt người đọc qua bài thơ này đến bài thơ khác, những bức tranh đẹp lung linh, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:

“Ngắm mặt trời mới mọc”

Cau là loài cây dại, là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, miếng trầu gắn liền với tình nghĩa vợ chồng. Trong thơ của Hammectu, câu này liên quan đến nỗi nhớ, vẻ đẹp của thiên nhiên. “Nắng Hàng Trầu” là một hình ảnh đẹp, gợi tả sự tinh khiết, trong trẻo của ánh ban mai. Màu của Hangpinang là một màu rất mới mà chưa có nhà thơ nào ở Hanmotu đề xuất trước đây. Thuyền trầu rợp nắng mới, nắng và sương đọng trên lá bổ sung cho nhau, tỏa sáng và duyên dáng. Thiên nhiên trở nên thanh thản, trong trẻo lạ thường, không gian trở nên cao ráo, khoáng đạt. Nắng cau cau soi bóng khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Từ xa nhìn bóng cây trầu, càng đến gần khu vườn càng đẹp và tươi mát hơn. Có cây khen xanh tươi, xanh trong, xanh mượt, xanh mướt:

“Vườn ai xanh như ngọc”

Câu thơ này tác giả ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của thiên nhiên được tưới mát bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mượt” gợi lên màu xanh rực rỡ, ngọc bích và sắc xuân của khu vườn. Có thể thấy, qua những hình ảnh thơ chân chất, giản dị đã phác họa nên một bức tranh nông thôn đẹp đẽ, sinh động và cao cả bằng những ngôn từ độc đáo.

Cảnh đẹp thôn quê càng thêm hài hòa với dáng người:

“Lá tre che mặt”

Những dòng chữ cách điệu thể hiện vẻ đẹp e thẹn, e dè, dịu dàng và rất đỗi dịu dàng của cô gái. Sự xuất hiện của một khuôn mặt dịu dàng và nhân hậu làm cho bức tranh phong cảnh và con người trong đêm lớn này thêm sống động.

Khổ thơ thứ hai gợi cảnh sông nước êm đềm, trĩu nặng nỗi buồn hi vọng hão huyền:

“Gió theo gió, mây bay, nước chảy, bông ngô lay thuyền, ai cứu được trăng sáng đêm nay?”

Không gian có gió, có mây, có sông, nên thơ, có đêm yên tĩnh, có ý nghĩa của sự chia tay. Khung cảnh rạn nứt của “gió theo gió, mây về theo mây” là nỗi mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa, không thể đi cùng người yêu. Vì lòng người đầy bi mẫn nên tự nhiên buồn khổ. Dòng sông vẫn chảy nhưng “đìu hiu”, gió xào xạc, những bông ngô đồng trôi vô định trên mặt nước. Cảnh “hoa buồn nước chảy thung lũng” gợi sự cô đơn, hoang vắng, u uất. Dòng sông cũng ảm đạm như chính tâm trạng của nhà thơ.

<3

Bốn câu “Đêm nay trăng sáng có kịp trở lại không?” Gửi gắm tâm tư tình cảm, khát khao được kết nối yêu thương, được tâm sự, bày tỏ của một nhà thơ. Lời thơ giản dị thể hiện niềm khao khát, khao khát và khát khao mãnh liệt được làm bạn tâm giao. Có lẽ, lúc này tác giả đang sợ hãi vì cuộc đời ngắn ngủi. Tôi sợ rằng thời gian ngày càng ngắn lại mà lòng người vẫn không thể vơi đi sự trống trải, cô đơn và buồn bã. Liệu một chiếc thuyền khác sẽ mang vầng trăng hạnh phúc đó đến cho người đàn ông may mắn này?

Hiện thực phũ phàng và cô đơn, tác giả phải đi tìm giấc mơ gặp được người con gái mình yêu, dù chỉ là một chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Khách đường mơ, khách đường xa, áo em trắng không thấy, nơi đây sương mù, ai biết tình ai đậm?”

Trong giấc mơ đầy hi vọng, nhà thơ thấy từ xa có một người khách mặc áo bào trắng tinh thoắt ẩn thoắt hiện trong sương khói. Cái bóng dường như trở nên mờ đi ngay lập tức và biến mất. Sự thuần khiết, cao quý của cô gái trong mộng khiến nhà thơ không khỏi sợ hãi:

“Nơi đây sương khói, biết ai thương ai hơn?”

Trong thơ, nhà văn ngập ngừng, sợ hãi một cảm giác bấp bênh. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không thể có đủ tình yêu khiến tác giả nghi ngờ tình cảm và tình yêu của đối phương. Tôi tự hỏi tình người có phong phú như tình người của chúng ta không?

Kết thúc bài thơ bằng một từ nghi vấn đầy nghi ngờ và thất vọng. Đẹp buồn, đẹp buồn, lòng đẹp buồn, tất cả tạo nên sự hài hòa của cảnh và tình.

Ngôi làng này đã qua bao thế hệ người đọc vẫn có một sức sống mãnh liệt. Bài thơ này không chỉ là một bức tranh Vida yên bình và tươi đẹp mà còn là một bức tranh đẹp về tấm lòng chân thành của Han Motu với thiên nhiên và khát vọng được sống và được yêu.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 16

Đây là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào thơ mới. Bài thơ này lần đầu được đăng trong tuyển tập “Nắng xuân” (1937). Hàn Kết Đồ là một nhà thơ tài hoa nhưng cuộc đời và sự nghiệp ngắn ngủi (1912-1940).

Cuộc đời của Han cũng phát triển một cách bất thường: anh phải chịu đựng sự hành hạ của bệnh tật và sống một cuộc đời cô độc giữa cuộc đời.

Miketu Han là người đa cảm, thơ ông được khơi nguồn từ nhiều nguồn cảm xúc: Niềm tin vào Chúa, tác giả đôi khi dùng nhiều mỹ từ để tự gọi mình là “nhà thơ của thập phương quân”. Cầu cho vẻ đẹp của quê hương, một tình yêu nồng nàn với bao tên đẹp: Ngọc Lộc, Mãng Điểu, thường thương, Hoàng Cúc. Làng này là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử. Được tạo ra từ hai nguồn cảm hứng – cảnh đẹp vi đà bich khê đã từng viết:

Xem Thêm : Off tiếng việt có nghĩa là gì? viết tắt của từ gì? – Zaidap.com

“Ngôi làng đêm lớn, ngôi làng đêm lớn”

Cây tre không buồn mà say

Thiên nhiên tươi đẹp, miền quê trù phú, đất đai ưu đãi khiến tác giả có tình yêu cuộc sống, con người. Nguồn thứ hai là trái tim yêu thương, một nửa sự thật của tình yêu như một mong muốn được bày tỏ. Nhà thơ Quách Tốn kể rằng Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh có cảnh Huế và một nén hương, hai bên có con thuyền và bóng tre. Bức ảnh còn gợi cảm giác, cảm xúc để từ đó làm nên chất thơ. Nhà nghiên cứu văn học cho biết thêm: “Khoảng năm 1937, khi hay tin Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Chúc gửi cho ông bức ảnh ông mặc áo dài trắng ở trường Đồng Khánh, kèm theo lời giải thích. Han Motu, tại sao bạn không đến Weida trong một thời gian dài?” Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của ngôi làng này.

Bài thơ bắt đầu bằng một lời mời, một lời chào, hay một lời trách móc, tất cả dường như đều hàm ý trong lời ca:

“Sao em không về làng chơi?”

Vida Village bên sông Hương là một ngôi làng xinh đẹp với nhiều vườn cây xanh tươi, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm vào buổi sáng khi mặt trời mọc, ánh nắng ban mai và những khu vườn xanh mướt dễ tạo cảm xúc. Sự gắn bó và nhiệt huyết với cuộc sống. Ở đây tác giả miêu tả những hàng cây trầu cao vút trong ánh bình minh gợi lên sự trong lành của thiên nhiên:

Ngước lên mặt trời, mặt trời chói chang

Hàng cau treo cũng gợi không khí làng quê như đã có từ lâu. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét: “Nắng Mới, sao gợi hoài niệm đến thế.”

Vườn ai xanh như ngọc

Từ “trơn” ở đây được sử dụng rất nhuần nhuyễn, thể hiện vẻ đẹp của đời sống miệt vườn, nói “trơn” là nói đến trạng thái uyển chuyển, mềm mại của những sợi tơ non đang trong quá trình phát triển. Màu “Pearl Green” là màu xanh lam được lọc qua ánh sáng, rất đẹp và gợi cảm. Đó là để mô tả màu xanh vào buổi sáng hoặc lúc bình minh, sau đó là màu ngọc lam. Có thể so sánh bằng nhiều từ, trạng thái và sắc thái khác nhau của màu xanh lam: xanh lam, xanh lục, xanh nhạt, xanh đậm, xanh lam.. Khu vườn chỉ chiếm chiều cao của không gian, hết dãy này đến dãy khác. Trầu cao và rộng, cây cỏ xanh tốt. Những khuôn mặt tốt ẩn giấu trong những khu vườn đó:

Lá tre che mặt chữ

Ở đây, tác giả miêu tả mối quan hệ giữa con người và cảnh vật là hài hòa, thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau. Dù chỉ thoáng qua nhưng cũng gợi lên ấn tượng về những người dân quê chân chất, những người lao động chân chất với khuôn mặt tự do. Nhìn chung, một tác giả miêu tả ở một đoạn vẻ đẹp của làng quê xứ Huế, đất đai màu mỡ, cây cối xanh tươi, một vẻ đẹp của những làng quê phồn hoa lâu đời; ở khía cạnh chủ quan là tình yêu cuộc sống. Ngoài tình yêu cuộc sống còn có tình cảm riêng với mảnh đất, con người thân quen. Khổ thơ đầu gợi ấn tượng về sự hiện diện của nhà thơ khi miêu tả cảnh đẹp làng quê bên bờ sông Hương. Tuy nhiên, đọc kỹ cả bài thơ, cái gì cũng hiện lên trong tâm trí, một nỗi nhớ tha thiết và tiềm ẩn, như bị đè nén trong chính tình trạng khó khăn của mình.

Làng là một bài thơ, tứ bình vận động theo cảm xúc bên trong rồi bộc lộ ra bên ngoài qua những hình ảnh phù hợp. Do đó, con đường không đi theo một dòng chảy liên tục và đôi khi có vẻ bị gián đoạn, như thể những ý tưởng và hình ảnh mới xuất hiện. Màu đất không chỉ đẹp mà còn tự nhiên mang nhiều sắc thái, cảnh vui, giận, buồn, vui, nơi lòng tác giả khao khát, con người ấy nên tránh xa nỗi buồn. Tác giả miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác, vừa buồn vừa gợi:

Gió cuốn theo chiều gió

Dòng hoa ngô đồng buồn

Tiếng nước chảy nhè nhẹ, làn gió thổi vi vu, cánh hoa ngô đồng đung đưa, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần mạnh mẽ, đó là những cảnh thiên nhiên có thật, và cũng phản ánh tâm trạng của tôi. tác giả.

Cảm xúc buồn đến từ nhiều lẽ, buồn trước xứ lạ, nhiều mộng mơ, nhiều dè dặt, chút nghi ngờ.

Nhắc đến Huế, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến dòng sông Hương, con sông có cảm xúc thẩm mỹ đặc biệt về một dòng sông trong vắt chảy giữa lòng thành phố. Cả nhà thơ Nam Trân và Tố Hữu đều có nhiều bài thơ hay viết về sông Hương, chẳng hạn như dòng thơ rất chân thành của Tố Hữu:

Tương Giang, Xiaohejing

Trái tim ta ngày đêm vẫn yêu

Với yếu tố là dòng sông tuổi thơ, dòng sông quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Đối với Hàn Kết Đồ, đây là một dòng sông thực sự thơ mộng và đẹp như tranh vẽ, đặc biệt là vào một đêm trăng sáng, nó là một dòng sông trăng. Trên trời có trăng tròn, thuyền cũng vậy, dừng ở nhiều bến trăng. hàn mặc tử là nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng với nhiều sắc thái lạ:

Không gian trăng tròn

Ta cũng là trăng nàng cũng là trăng

Tác giả đã nhân hóa vầng trăng theo con mắt của tình yêu:

Vầng trăng mới lớn còn e thẹn

Ngọt ngào như tình yêu của một nữ tu

Trăng sáng đưa cành liễu

Chờ gió đông về

Trong bài thơ, sông Tương Thủy được miêu tả là dòng sông trăng, rất nên thơ, dưới trăng rằm cũng có những chiếc thuyền neo đậu, hình như cũng có. Mối tình với Huệ là một mối tình đẹp.

Ở đoạn cuối, tác giả bộc lộ tâm trạng:

Giấc mơ của khách đường dài

Áo của tôi trắng quá

Khách phương xa nhớ về mảnh đất thân yêu này để tìm lại những hình ảnh, kỷ niệm, hay chỉ là một mong ước trong đời? Cái gì cũng thực như hư, hình ảnh thiếu nữ áo trắng thật đẹp, gợi lên sự trong sáng, ngây thơ mà một số nhà thơ mới thường sử dụng. Trong thơ cổ có câu “ở đây sương mù” nói lên sự phù phiếm của cuộc đời: “mây mù mịt như người đi đêm”.

Hàn Motu gọi hình ảnh là “hình ảnh mờ ảo” là thực, bởi vì hình ảnh của người thân vẫn còn mờ ảo, vừa thực vừa không thực. Đó là một tình cảm lãng mạn, một hình bóng xa xăm, một giấc mơ đẹp. Chính vì vậy, một vấn đề tu từ rất hiện thực và văn chương nảy sinh trong lòng tác giả:

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Đây là một bài thơ đẹp, thiên nhiên tươi đẹp, tình cảm con người và ước mơ, với những sự e dè, nửa thật nửa giả của những cuộc đời yêu đương. Bài thơ này bộc lộ nỗi lòng của tác giả, một nhà thơ mang nhiều ước mơ và biết giới hạn của những gì mình có thể đạt được trong cuộc sống. Nhà phê bình Lê Đình Cay nhận xét: “Hai bài thơ trong điển tích của Hàn Mặc Tử được nhiều người đón nhận: Mùa chín chín và Đây thôn Vĩ Dạ không xa lạ gì với thể loại bản địa, thuộc loại thơ mới thuần khiết nhất.”

Phân tích thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 17

Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm của Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo. Đoạn thơ này tái hiện bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của cảnh đẹp xứ Huế và con người xứ Huế. Tác giả bày tỏ nỗi lòng, tình cảm và số phận của mình theo cách này. Hãy cùng phân tích ngôi làng Vida này để thấy được tình yêu cuộc sống và chất thơ lãng mạn của tác giả.

Trong tiết 1 “Làng này” năm lớp 11, cảnh thiên nhiên buổi sáng thật lung linh. Một câu hỏi tu từ được tác giả đặt ra nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp của quê hương. Khung cảnh thiên nhiên có nắng, có trầu, có vườn, có tre lá rất quen thuộc ở nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, mọi thứ chỉ còn lại trong ký ức và tiếc nuối, bởi tác giả không bao giờ có thể trở lại nơi này. Đoạn thơ thể hiện sự náo nhiệt của thiên nhiên và sự buồn bã, ủ ê của tâm trạng con người.

“Sao em không vào làng chơi?”

Ngắm mặt trời mới mọc.

Vườn ai xanh như ngọc

Lá tre phủ kín mặt chữ. “

Han Motu hỏi với giọng nhẹ nhàng nhưng có chút trách móc. “Sao anh không về làng chơi?” Đây là lời mời của tác giả. Han Motu cũng tự hỏi mình, tại sao anh ấy không quay lại? Làng Wei là một nơi tự nhiên, trong lành, tươi sáng và đầy màu sắc. Hình ảnh thiên nhiên sống động, ấn tượng và lộng lẫy. Đây cũng là vẻ đẹp không cầu kỳ mà người Huế mơ ước, kín đáo và nổi bật. Những hình ảnh “trầu cau trong nắng mai”, “vườn xanh như ngọc”, “lầu tre”, “tráng dương” thật lấp lánh.

Dàn ý Phân tích thôn Vĩ Dạ phần 2 là một cảnh thiên nhiên buồn. Tình yêu bên sông thơ mộng, ánh trăng trên đầu, nhưng thật cô đơn. Tác giả cảm nhận nỗi buồn chia tay:

“Gió theo gió, mây theo mây

Dòng chảy buồn, hoa hai đầu

Thuyền ai cập bến sông Trăng

Đêm nay có chở trăng về được không? “

Thiên nhiên, vận hành theo quy luật của nó, là duy nhất trong không gian bao la. Tác giả bị bỏ rơi, xa lánh trong cuộc đời khốn khổ. Anh yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người nhưng số phận của anh thật bi đát.

Thiên nhiên hùng vĩ, bao la, tách rời hình ảnh “gió” và “mây”. Theo quy luật tự nhiên, gió luôn là nhân tố đưa mây bay và chúng thường hòa quyện vào nhau. Tuy nhiên, trong câu thơ của Hammecto, điều này là trái luật. Gió mây tan, không gặp nhau. Han Mozi xấu hổ về số phận của mình, xui xẻo cả đời và bị người khác gạt sang một bên. Anh vẫn yêu thiên nhiên, cuộc sống, đất nước và đặt cái đẹp lên hàng đầu. Tuy nhiên, anh ấy đã không thể lấy lại sức khỏe trước đây và không thể quay lại cuộc sống hàng ngày.

Bài thơ này thể hiện nỗi đau trong lòng của Han Mektu. Tác giả sử dụng thủ pháp nhân hóa để làm nổi “nước buồn” trong lòng. Động từ “đẻ” nhẹ nhàng gợi nỗi lòng trĩu nặng. Không gian mây, gió, nước buồn hiu quạnh, cũng ảnh hưởng đến hoa ngô đồng. Những bông hoa khẽ lay động, cảm nhận rõ nét buồn của cảnh vật xung quanh. Ta thấy lòng nhà thơ cũng tan nát, cô đơn, không có ai bên cạnh, chỉ có nỗi buồn với thiên nhiên. Vẫn còn rất nhiều tiếc nuối và mong mỏi về cuộc sống mai sau trong cuộc đời tác giả.

Tác giả lo sợ cho số phận của mình. “thuyền ai” là đại từ chỉ định, người viết tự đặt ra câu hỏi dù biết rằng chắc chắn sẽ không có câu trả lời. Suốt cuộc đời, nhất là những năm tháng cuối đời, nhà thơ luôn tìm ánh trăng để làm người bạn, người tri kỷ. Không gian có ánh trăng sáng, hình ảnh mờ ảo, siêu thực. Khác với những người bên ngoài, chỉ có một ánh trăng luôn dõi theo bên anh. Vầng trăng là niềm an ủi và hy vọng duy nhất của anh lúc đó là được sẻ chia và thấu hiểu.

Hàn Mặc Đồ dùng từ “đúng lúc” cho thấy ông không còn nhiều thời gian và tác giả e ngại điều gì. Đối mặt với nguy cơ tử vong bất cứ lúc nào, ông vẫn cống hiến hết mình cho thiên nhiên và cuộc sống.

Đề cương phân tích Phần cuối cùng này là phần yêu thích của tác giả. Hình ảnh thiên nhiên nổi bật, liệu nhà thơ có giữ được tâm trạng trước mối tình đơn phương.

“Khách hàng mơ ước, khách hàng phương xa

Áo của tôi trắng quá

Ở đây có sương mù, có sương mù

Ai biết tình yêu của ai có nhiều không?

Khổ thơ cuối bài thơ là sự nuối tiếc của tác giả trước mối tình đơn phương. Anh đau khổ vì tình yêu không được tiết lộ của mình. Qua đó, anh khao khát được yêu thương, được giao tiếp, sẻ chia, được sống một cuộc sống bình thường như bao người khác.

“Khách phương xa mộng” được lặp lại hai lần, tác giả nhấn mạnh sự bền bỉ, nhanh nhẹn, khẩn trương. Viết về sự chờ đợi mòn mỏi của nhà văn, van xin mọi người mở lòng với mình. “Áo anh trắng quá” Tôi không nhìn thấy bằng mắt thường, cũng bởi sương mù che khuất không gian. Hình bóng cô gái trong bức tranh mực lạnh lẽo dần xa xăm, biến mất khỏi ký ức. Những người anh thầm thương trộm nhớ đã trở thành kỉ niệm, lại vì hoàn cảnh khó khăn mà họ lại càng xa tầm với.

Tác giả tiếp tục sử dụng câu hỏi tu từ “ai” chứ không nói đến một người cụ thể nào. Tính chất hữu tình, mơ hồ, chịu ảnh hưởng của tâm trạng nhà thơ. Hình ảnh người đàn ông cô độc, tài giỏi nhưng kém may mắn. Tâm trạng của tác giả đi từ cung bậc này đến cung bậc khác, vui có, yếm thế có, buồn có, cô cóng có. Anh không mong đợi tình yêu như phần còn lại của thế giới.

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nói về mối tình đơn phương tuyệt vọng của nhà thơ Hàn Mặc Tử nhưng cũng rất yêu đời. Nói đến Huế ta không thể quên làng là bài thơ Vĩ Dạ, nói đến Hàn Mặc Tử ta không thể quên vẻ đẹp xứ Huế, đặc biệt là vẻ đẹp thôn quê trong những vần thơ để đời của ông.

Phân tích thơ thôn này vi đà – bài 18

Trong phong trào thơ mới, Hàn Kết Đồ là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất, phong cách thơ độc đáo vừa trẻ trung, lãng mạn vừa buồn đau, tất cả đều xuất phát từ cuộc đời quá nhiều đau thương và cay đắng của một con người. Nghệ sĩ trẻ định mệnh. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu, xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Kết Đồ, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Đoạn thơ này mang đậm dấu ấn của tác giả, nội dung trong sáng, vô bờ bến, bộc lộ tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, đồng thời cũng bộc lộ những ám ảnh, xúc động của tác giả về số phận éo le của mình, đan xen giữa hai người. Cảnh thực và tuyệt vời.

Hàn Mạch Đồ là một nhà thơ tài hoa nhưng cuộc đời lại nhiều đau khổ, không may mắc phải căn bệnh phong hủi khi còn trẻ, khi sự nghiệp đang thăng hoa, đặc biệt là trong tình yêu, Hàn Mạch Đồ cũng là một người kém may mắn, chịu nhiều đau khổ của đau đớn và khổ sở. Cuối đời, ông trở lại mảnh đất Quy Nhơn để chữa bệnh, bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh có phong cảnh xứ Huế, trên đó có dòng chữ Cô gái hoa cúc vàng, người con gái mà Hán tử thường thương nhớ . Chỉ thế thôi nhưng đã khơi dậy niềm hạnh phúc, niềm vui trong nội tâm cô đơn của người nghệ sĩ, trái tim ông tràn đầy niềm khao khát Huế và xứ Huế, đồng thời cũng bộc lộ niềm khao khát sống bên trong của ông qua rất trong sáng, trong trẻo. khổ thơ, niềm khao khát hạnh phúc lên đến tột độ.

“Sao không về thôn chơi? Nhìn vườn đầy Tín Dương, người xanh như ngọc, lá trúc che mặt”

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi bỏ ngỏ đáng yêu của Huệ “Sao em không về làng chơi?”, đó có thể là lời cảm thán vu vơ của một cô gái mong chờ người yêu mãi mãi. Về Huế thấy nhớ, cũng có thể là lời mời thân tình của người bạn phương xa, muốn tác giả một lần nữa trở lại Huế, ngắm nhìn cố đô yên bình. Và trong câu hỏi bỏ ngỏ ấy, ta dường như đã nhìn thấu nỗi lòng của tác giả Hàn Kết Đồ đang tự hỏi lòng mình tại sao không trở về quê hương, bày tỏ sự bất lực trước bạo bệnh, đối diện với căn bệnh toàn tật? Nỗi khổ của riêng tôi.

Trong dòng hồi tưởng, ngôi làng nhỏ Hemmettu có hình ảnh đặc trưng là những cây cau thẳng tắp hướng về phía mặt trời trong vườn. Hình ảnh “hàng cau nắng” là một hình ảnh đặc sắc, khái quát và ấn tượng. “Ánh nắng” chỉ ánh nắng buổi sớm, mặt trời đã lên rất cao và ở độ ấm nhất, chưa nóng như mặt trời. không bật. Trong khung cảnh ấy, ánh nắng tràn ngập không gian, nhuộm vàng nhạt ngọn cây trầu xanh tươi, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống và sự yên bình, tĩnh lặng của làng quê. “Vườn Ai trong như ngọc”, điệp từ “vườn ai” tô điểm thêm hơi ấm con người cho bức tranh thiên nhiên, thêm hơi ấm của nắng sớm, khung cảnh hòa quyện giữa con người và thiên nhiên thêm hài hòa.

Các tính từ “mịn màng” và “xanh như ngọc” đều được Hàn Kết Đồ miêu tả một cách khéo léo và tinh tế khi anh nhớ về làng Weida mở ra một bức tranh thiên nhiên một cách tinh tế. Tràn đầy sức sống. Chính sự tươi mát của lá cây, sức trẻ béo ngậy, hơi mát của sương sớm đọng lại sau đêm dài mà dưới ánh mặt trời ấm áp, nó tỏa sáng đẹp đẽ như những viên ngọc quý, khiến người ta phải trầm trồ. Đến câu cuối, nét bút thơ của Chung Hồ mới thực sự làm rõ và làm nổi bật vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh quê “Lá tre che mặt mà lấp”, lấy một mảng nhỏ của phong cảnh, lá tre làm điểm nhấn khuôn mặt dịu dàng và thông minh có lẽ cũng là hình bóng mà Han Motu thường nhớ nhung, một người có vẻ đẹp cổ kính. Sách quý và hồn, đại diện cho cả một vùng đất và con người mà tác giả thân yêu ngày đêm mong mỏi.

Nếu như ở phần đầu, Hàn Kết nhìn cuộc sống và con người bằng một thái độ tích cực, lạc quan và đầy hy vọng, với bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì ở phần tiếp theo, mạch cảm xúc của tác giả trôi theo như ngày đêm đổi thay , hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác nhau khoác lên mình những gam màu mới.

“Gió theo gió, mây theo mây, hoa ngô đồng trong nước buồn, sông trăng neo thuyền, đêm nay trăng có về không?”

Từ bức tranh thiên nhiên trong sáng, màu ấm, màu lạnh, màu trơn, màu lạnh, Hàn Kết lập tức chuyển sang cảnh đêm tối, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên với bức tranh sông sâu lạnh lẽo. Sự trống vắng và cô đơn lẩn khuất trong lòng tác giả. Hình ảnh “gió theo gió, gió theo gió, mây, mây” là một hình ảnh buồn, lạc lõng, hàm ý sự chia ly, tan rã, không bao giờ gặp lại nhau. Rõ ràng Phong Vân là hai cơ thể phụ thuộc vào nhau, gió thổi mây bay, như hình với bóng, nhưng trong thơ ca Trung Quốc, Phong Vân lại tách biệt, hai nơi dường như không thể tách rời, hiếm khi liên kết với nhau. Phải chăng đây là ám chỉ mối tình của anh với Jinju, hai người nay như cách biệt, mai là Âm Dương. Rồi khung cảnh mây mù bão bùng cũng gợi cho tôi mối liên hệ giữa tác giả và thế giới, dường như lúc này đây, ông cũng bắt đầu cảm thấy thời gian của mình không còn nhiều, dường như cuộc đời ngày càng xa ông, và cuộc sống trần thế của anh Chắc không còn nữa. Chính suy nghĩ và hiện thực dày vò tâm hồn tân sinh viên vừa thắp lên niềm hy vọng của bản đồ mực lạnh. Một lá bài khiến anh ngây ngất, tưởng chừng như thoát ra khỏi khói mù mịt tăm tối của cuộc đời, nhưng anh vẫn không thể vượt qua sự khắc nghiệt của số phận, và chính anh buộc phải tỉnh giấc, trở về với thực tại đau thương.

Câu tiếp theo “Thủy sầu hoa hương” tương ứng với câu “Cảnh buồn chẳng vui bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi éo le của số phận, Hàn Kết Đồ nghĩ đến sông Hương. Trầm tĩnh, từng trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dường như anh nhìn thấy nước và hiểu được nỗi buồn của mình, buồn lặng lẽ, một nỗi buồn không thể bày tỏ cùng ai, cô đơn, lạc lõng, lẻ loi, không người để cùng đồng hành. Hình ảnh “Hoa ngô đồng” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, hoa ngô đồng là loài hoa không màu, không mùi, nhạt, mau héo. Đó dường như là hình ảnh của Han Ketu cuối đời, đung đưa theo gió, nhưng không thể chống lại sự héo úa của số phận, người ta không khỏi thở dài cho cuộc đời, số phận và nỗi đau của người nghệ sĩ mà anh phải gánh chịu . chịu đựng cuộc sống của mình.

Trong lúc buồn bã, tuyệt vọng và cô đơn, chàng nghĩ đến vầng trăng, người bạn tri kỉ duy nhất chàng có thể tâm sự và thấu hiểu. Cảnh bến đò, ánh trăng vằng vặc là một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ điển, diễn tả cảnh sông nước tĩnh lặng, êm đềm, có phần cô quạnh. Mượn một bài thơ của Hàn Motu, khung cảnh này càng thêm sáng tạo, Khương Kinh Trung hỏi “Thuyền ai đậu bên sông Nguyệt/Đêm nay có rước trăng về không?”, đặt câu hỏi từ tận đáy lòng. .Trên mặt nước bao la, ánh trăng rắc trên mặt nước, có con thuyền nhỏ nằm lặng lẽ, thật nên thơ và đẹp như tranh vẽ. Hàn Kết Đồ không yên lòng, có người vội hỏi thuyền của ai đang neo đậu, có người vội hỏi liệu có thể đưa mặt trăng quay ngược thời gian không, có thể đưa người tri kỷ của mình quay ngược thời gian hay không. Ta như thấy Hàn Mạch đi qua vội vã, lo âu, hụt hẫng, sợ rằng thời gian không còn bao lâu nữa và không bao giờ đợi được ánh trăng rọi vào tim mình. Càng đọc càng thấu hiểu nỗi lòng của nhà thơ, càng thấu hiểu nỗi lo âu, cô đơn, bất lực của ông Khi tình yêu và cuộc đời đã nằm trên giường bệnh, ta càng cảm nhận được cuộc đời đau đớn nơi trần thế. đến. Tất cả nỗi đau trong bài thơ và sự tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Kết Đồ bộc lộ rõ ​​nội tâm khát khao sống và yêu, mặc dù trong lòng tác giả đã nhiều lần buông xuôi, chấp nhận số phận, chỉ cần còn một chút niềm tin, trái tim mình. sẽ được Sẽ tràn đầy sinh lực và hạnh phúc hơn bao giờ hết. Dù vạn vật như pháo hoa rực rỡ đẹp đẽ, nở rồi tàn.

“Mộng Viễn khách phương xa đến, áo trắng sương sa, ai biết được tình sâu”

Hàn Mai Tử, người đến từ cõi thực đã ngủ quên, thể hiện rõ nét những vần thơ khó hiểu nhất của ông trong làng thơ Việt Nam đương đại. “Mơ khách phương xa, khách phương xa”, đây cũng là một bài thơ mơ hồ, mơ hồ, “Khách phương xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh cho diện mạo của nhân vật này nổi bật hơn. mờ mịt hơn. Khách nhân như mộng, không biết tướng mạo, không biết tướng mạo, chỉ biết mình càng ngày càng xa, mãi mãi không quay lại, ám chỉ tình yêu của Hàn Mặc Đồ dành cho Kim Cúc là bất lực. Và sự hiện diện của anh ấy trên thế giới ngày càng trở nên mong manh và mờ nhạt. Tác giả cách xa nhân gian, dần dần trở thành người xa lạ, đi một đoạn đường ngắn ước chừng 28 năm rồi lặng lẽ ra đi, liên tưởng này khiến người ta vừa đau lòng vừa xót xa. Đối với cuộc đời nhà thơ.

Bước vào câu tiếp theo “Áo anh trắng quá không thấy được”, là hình ảnh thoáng qua của người con gái anh yêu trong tiềm thức, tiết lộ khoảng cách ngày càng xa giữa anh và cô, đó không chỉ là khoảng cách, khoảng cách địa lý còn là khoảng cách tinh thần , và khoảng cách giữa sự sống và cái chết không thể đảo ngược. Chính khoảng cách này đã khiến Hàn Mạch Đồ càng thêm tuyệt vọng, bóng dáng cô gái năm xưa càng lúc càng mờ mịt, nhìn không rõ, sờ không được, muốn sờ mà không sờ được. Để giải thích sự mơ hồ của từ “em”, tác giả viết “sương mù đây”, để rút ngắn khoảng cách, tác giả dựa vào sương mù ở Huế để nhìn rõ, nhưng nhấn mạnh sự hoang mang, bế tắc và Cuộc đời của Han Motu Tuyệt vọng, khi chính đôi tay của mình không thể vượt qua sương mù để tìm thấy bóng hình của tình yêu. Bị thương, không thể chống lại số mệnh không chịu chết.

Nỗi đau và mặc cảm của số phận khiến tác giả không thể mở lòng để hiểu nỗi lòng của Jinju, không thể giải thoát mình khỏi những mộng tưởng sâu xa, trước đó chỉ biết thốt lên “ai biết được tình ai phú quý?”, Chỉ như nhắn gửi người con gái đi xa sẽ vẫn nhớ về người đàn ông tội nghiệp này, rồi những lời trách móc đau đớn khi trái tim tan nát, rồi cả đoạn tình cảm sợ Jin Ju không còn quan tâm lâu nữa. thời gian. Suy cho cùng, có lẽ đó vẫn là một thông điệp tình yêu mà anh ấy muốn truyền tải một cách thật tinh tế và cẩn thận, bởi vì anh ấy biết thời gian của mình với một cô gái cis là đếm không xuể, và anh ấy muốn cô ấy biết cảm giác của anh ấy, và anh ấy muốn cô ấy biết rằng anh ấy không biết rằng những phức tạp và mâu thuẫn là kết quả của quá nhiều tổn thương tâm hồn khi gần đến những ngày cuối cùng của cuộc sống trần thế, đó là lý do tại sao người ta không thể có nhiều niềm tin, hay lan truyền hy vọng, tình yêu cho người khác. Tốt hơn là ôm lấy nỗi đau, trong Bạn đối mặt với tình yêu tuyệt vọng một mình trong phần còn lại của cuộc đời ngắn ngủi.

“Weida Village” là một trong những tác phẩm tiêu biểu và đặc sắc nhất trong sự nghiệp thi ca của Hàn Kết Đồ. Từ sáng sớm đến đêm khuya, từ cảnh thực đến cảnh mộng, mở ra trong bức tranh thiên nhiên. Nó thể hiện tài năng sáng tạo, cũng như một tâm hồn Dù phải chịu nhiều đau thương, bất hạnh nhưng Hàn Kết Đồ vẫn giữ trong mình tình yêu cuộc sống, khát khao hạnh phúc và sự giản dị của tình yêu. Kỳ lạ, mặc dù nó quá mức cần thiết cho một nghệ sĩ. ngoài tầm với.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Ví dụ 19

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta nghĩ ngay đến một nghệ sĩ tài năng nhưng kém may mắn. Qua bài thơ “Làng Vilda” ta cảm nhận rõ hơn sự sắc sảo, tinh tế của Hammetto.

Thơ về xứ Huế mộng mơ Làng này đượm tình quê hương nhưng cũng đầy sầu não tàn, Như dòng sông thơm hiền hòa, tiếng hát chan chứa tình Huế:

Sao em không về làng chơi? Ngắm mặt trời mới mọc

Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, như một lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái Huế dành cho chàng trai mình đem lòng thương nhớ, không chút hờn giận. Trong câu thơ còn có cả những mong chờ, những lời trách móc nhẹ nhàng sao lâu rồi anh không về làng. Lại một lời mời gọi “ngọt ngào” khác, một làng quê hùng vĩ hiện ra, không như cảnh tượng trong “Vượt Cấp” nguy nga tráng lệ hay mang vẻ huyền bí phổ biến, mà ở ngòi bút của chính tác giả, hiện ra với vẻ đẹp trữ tình, mơ màng, chân thực.

Vẻ đẹp bắt đầu từ “nắng mới” buổi ban mai, ánh nắng ban mai dịu dàng, tinh khiết chiếu rọi “hàng trầu” xanh mướt như đón nhận tia nắng đầu tiên. Mọi thứ dường như được bao phủ trong ánh sáng, một loại ánh sáng thuần khiết, và dưới sự chiếu sáng của ánh sáng đó, mọi thứ dường như bừng sáng với sức sống dồi dào.

<3

Một khu vườn hiện ra trước mắt, nhắm mắt lại cũng cảm nhận được màu xanh nhàn nhạt, lấp lánh dưới ánh ban mai. Nhà thơ sử dụng hình ảnh tương phản “xanh như ngọc” để gợi tả sức sống tươi mới, nhựa sống đang đâm chồi nảy lộc của cây cối.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đó “lấy lá tre che mặt mà đi lấp”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… Ít ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.

Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau những “lá trúc” mơ màng, một bức tranh hư ảo. Phải chăng đây là người làng Ngụy, người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Làng Vĩ nằm bên bờ sông Hương yên ả và xinh đẹp, với những vườn cây xanh mướt, nằm bên bờ sông Hương thơ mộng.

Gió theo gió, mây theo mây, hoa ngô đồng trong nước buồn, thuyền bên sông trăng, ai cứu trăng đêm nay?

Những bài thơ viết về cảnh thiên nhiên nhưng chất chứa tấm lòng của nhà thơ. Người ta thường nói “gió cuốn mây bay”, gió và mây cùng một hướng. Và trong bài thơ của Hàn Kết Đồ, “Gió theo gió, mây theo mây”. Có sự chia ly trong tim. Nước sông Hương cũng đượm buồn man mác, hai bên bờ là “hoa ngô đồng”. Cảnh vật như bị ngăn cách, rung chuyển.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ nhung người mình yêu, nỗi tiếc nuối khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “tàu và trăng” thường xuất hiện trong bài thơ “Nguyệt phong nguyệt không đầy thuyền” – Nguyễn Công Như. Và trong bài thơ này, Hàn Kết cũng mượn hình ảnh trữ tình ấy để diễn tả nỗi niềm “thuyền ai dừng trên sông Trăng”.

Ánh trăng soi dưới dòng sông Hương, dòng sông trong nhà thơ không còn là hình ảnh đơn thuần mà đã trở thành “dòng sông trăng” làm cho sông núi trở nên lung linh, hư ảo. Có ai ngờ “dòng suối buồn” chảy vì những “bông ngô đồng” bay trong hoàng hôn lại biến thành “dòng sông trăng” thơ mộng đến thế.

Dù “Con tàu của ai” là con tàu của người lạ, hay con tàu chở nỗi thương nhớ thầm kín của nhà thơ, đều vừa quen vừa lạ. Câu hỏi tu từ có vẻ rất day dứt, thiết tha “Đêm nay tôi có thể đưa trăng về kịp”. Hỏi mà không trả lời, phải chăng là tiếc nuối hay si mê, “đúng giờ” làm cho lời thơ thêm vội vã, gấp gáp, dường như đang chạy theo sự mong đợi, hay chạy theo mối tình mà nhà thơ ấp ủ?

Nhưng những ưu tư, hoài niệm ấy chỉ còn trong tiềm thức, như ánh trăng dưới sông Tương Hà, dễ dàng tan biến. Hiện thực chỉ là một giấc mơ phũ phàng:

Giấc mơ từ xa, khách phương xa. Quần áo quá trắng để nhìn rõ. Nơi đây sương mù, biết ai tình hơn ai?

Nhà thơ mượn biện pháp ám chỉ “khách phương xa…khách phương xa” để làm cho giọng thơ trầm bổng, với nỗi nhớ trong nhung nhớ và nỗi buồn trong hiện tại. Mọi vật như nhòe đi bởi màu áo trắng, màu trong veo trong veo lộ ra dưới ánh nắng, tiêu biểu cho màu áo đồng phục của nữ sinh Huế.

Và trong bài thơ này, đó còn là màu hoài niệm của chính tác giả. Được bao phủ trong làn sương sớm, “chân dung sương mù” như một cái bóng, thấp thoáng, mơ hồ, xa vời. Trong hư vô ấy, câu cuối như nỗi thất vọng của chính tác giả “Biết rằng tình ai có dạt dào?”.

Nỗi thất vọng về tình yêu đơn phương, lời bài hát như phảng phất nét u sầu. Bài thơ kết thúc trong nỗi buồn. Nhà thơ không nói với ai, mà chỉ nói với chính lòng mình không biết là một thứ tình cảm khác “giàu có” hay hư ảo như tà áo trắng trong sương sớm.

Bài thơ Làng này là sự kết hợp hoàn hảo giữa cảnh và tình. Vì vậy, chúng ta càng khâm phục ý chí sinh tồn của tác giả và tài năng của một nghệ sĩ có tâm.

Phân tích thơ thôn này vi đà – mẫu 20

Khi lấy tên Phong trào Thơ mới, Du Laicui gọi đó là “nấm lạ trên dòng họ văn hóa dân tộc”. Có người biết cái “dị” của thơ mới, có người không, nhưng hẳn ai cũng biết cái “dị” mà các nhà thơ Hàn khoác lên mình khi bước chân vào làng thơ. Những vần thơ điên đầy suy tư của hồn, trăng, máu luôn đọng lại trong lòng những người yêu và đọc thơ Hàn. Nhưng không ai có thể ngờ rằng giữa khu rừng thơ đến rợn người đến lạ lùng này lại mọc lên một bông hoa tinh khiết, còn phảng phất hơi thở của sự sống. Loài hoa ấy ở đây có tên là Làng Vida, chất chứa bao cảm xúc và nỗi nhớ quê hương đã từng gắn bó với nó…

Bài thơ chỉ có ba khổ nhưng cô đọng biết bao nỗi nhớ nhung, nhớ mong, hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ này nói về chuyện tình giữa nhà thơ và cô gái Huế Hoàng Cúc. Trong những ngày đau khổ nhất của cuộc đời, anh nhận được bức tranh sông Huế trong một đêm trăng và mấy lá thư của người con gái anh thầm mến. Biết bao cảm xúc ùa về, nơi bắt đầu cuộc hành hương của trái tim tôi, và bài thơ hay nhất lấy cảm hứng từ xứ Huế mộng mơ vỡ òa trong hoài niệm…

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi đầy ý nghĩa. Thay vì hàng loạt những câu tự vấn đau đớn và nhức nhối như chúng ta đã gặp trước đây:

Tôi còn đâu đây, ai đưa tôi về cõi thăm thẳm, sao hoa phượng nở máu chảy tim tôi?

Câu hỏi đặt ra ở đây không chỉ là một lời mời mà còn là một câu hỏi, một lời trách móc, thậm chí là một lời than thở: “Sao anh không về làng chơi?”. Phải chăng cô gái Huế? Hay bạn muốn tự hỏi mình? Dù là gì đi chăng nữa, điều quan trọng nhất mà chúng ta thấy ở đây là một sự thiết tha, một cảm xúc mà nhà thơ trở về với miền ký ức ấy, dù chỉ là trong đầu. Được chơi ở sáu ô nhịp, câu thơ cao vút ở khổ cuối đủ khiến người đọc cảm thấy khó chịu. Là “không về” không phải “không về”, là “về chơi” chứ không phải “về thăm”. Nếu đọc kỹ và suy nghĩ sâu xa, chúng ta sẽ thấy một câu thơ chất chứa nhiều suy nghĩ. “Chưa về” nghĩa là tôi sẽ trở lại, còn “thăm viếng” nghe lạ quá. Đứng ở vị trí của người con đã từng có tình cảm đặc biệt với xứ Huế, Hân Hân đã viết những câu thơ sau đây với những suy nghĩ của riêng mình. Cảnh vườn làng hùng vĩ hiện ra, xanh vàng:

Nhìn mặt trời kìa, nắng mới rọi vườn ai xanh mượt như lá tre che kín mặt

Ấn tượng sâu sắc nhất mà bài thơ để lại là không gian tràn ngập ánh nắng. Không phải là “nắng” trong sương khói trong mơ, không phải “nắng” bên bờ sông Bạch Hà, nắng ở đây, “nắng mới”, không ảo diệu hay phóng đãng, nó thuần khiết, đẹp đẽ và thuần khiết. trong trẻo lạ thường. Nắng đổ xuống cây trầu, những cành cau vươn cao đón ánh nắng dìu dịu, cả một khu vườn xanh mướt sương đêm được tắm mình trong nắng mới sáng nay. “Mượt mà” như cách Hân gọi chúng trong vườn, Hân ví như những “viên ngọc” màu xanh khơi gợi biết bao sắc màu. Cùng lúc gợi mở và gợi cảm về màu sắc, đồng thời sáng bóng và tinh khiết. Người ta ngỡ ngàng vì cảnh làng quê, ruộng vườn quen thuộc năm xưa giờ rõ nét đến lạ lùng.

Nhớ về thôn Vĩ là nhớ về dáng vẻ thân thương của những con người nơi đây. Nhà thơ không miêu tả mà chỉ gợi, dùng bút pháp cách điệu cũng đủ cho ta cảm nhận được nét dịu dàng chân chất của con người Huế, cô gái Huế yêu kiều, mềm mại thấp thoáng sau gương tre. Các phông chữ rất nhiều màu sắc. Ta thấy hình ảnh này trong bài kệ Bích Khê:

vi đà thôn, vi đà thôn qua rổ không buồn mà uống.

Nét bút tao nhã, cảm xúc tinh tế khơi gợi hồn thơ thánh thiện say đắm xứ nóng. Tìm đâu ra tình yêu đất nước, đôi khi tình yêu bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào bình dị này. Thực tế đã chứng minh rằng không chỉ Hoàng cung, Trịnh Công Sơn viết Huế hay. Hân cũng đóng góp một số bài thơ chân thành đầy tình yêu Huế…

Nhưng nhắc đến Huế mà quên cảnh đêm trăng đã thành tâm hồn thì chẳng phải là lơ là nhiệm vụ hay sao? Nắm bắt được tâm hồn của con người ấy, nhà thơ đưa mắt người đọc đến một không gian khác, chơi đùa với mây gió, và lặng lẽ đi với nước:

Gió theo gió, mây theo mây, nước buồn hoa ngô đồng

Một bức tranh gợi nỗi buồn, gợi nỗi sầu. Gió thổi, mây nhẹ, hoa ngô đung đưa, hương thơm ngào ngạt. Huế đã trông gần như giống hệt nhau trong nhiều thập kỷ. Chỉ cần một vài cái chạm nhẹ, không khí tĩnh lặng của cố đô sẽ được đánh thức.

Nhưng hãy đọc kỹ để xem còn bao nhiêu ẩn ý đằng sau câu này. Thật vậy, đây không chỉ là bức tranh về ngoại hình mà còn là bức tranh về tâm trạng, giai điệu của tâm hồn. Chỉ cần lắng nghe nghịch lý trong câu thơ. Bình thường gió thổi mây bay, nhưng ở đây gió mây ngả nghiêng, như không thể đi chung một đường. Khung cảnh đã nội hóa và đầy chia ly. Đến nỗi nỗi buồn được gọi bằng một cái tên: “nỗi buồn”. Chữ “sầu” tóm gọn nỗi sầu của con người và sự tê tái của số phận. Dưới đây là nội dung của một bài dân ca cổ:

Ai cưỡi gió lay ruộng khóm sậy cho em lo?

Nhưng không biết do nỗi buồn đã lấn át tâm hồn, hay do không kiềm chế được mà hai đoạn sau khung cảnh trở nên rất kỳ ảo :

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đêm nay chở trăng về ?

Đây không phải là lần đầu tiên những con thuyền, mặt trăng và bãi biển xuất hiện. Một bài thơ cổ của ai đó:

Nước non xanh gối đầu trên cát. Buổi tối, khách lên lầu.

Nhưng điều khác biệt ở đây là nhà thơ không đứng đó nhìn trăng nhìn sông mà chìm đắm trong cảm giác hư ảo. Trăng lại xuất hiện, nhưng không phải là “Trăng vàng ngọc ngà” hay “Trăng ngọa sóng” mà là một vầng trăng bí ẩn tan vào nước. Trong cảm nhận mơ hồ của nhà thơ, sông đã thành sông trăng, thuyền thành thuyền trăng, bóng người cũng thành bóng trăng. Tất cả tràn ngập màu trăng. Vầng trăng ở đây mang theo nỗi khắc khoải, lo lắng, tiếc nuối trước nỗi đau xa lìa thực tại, nỗi khắc khoải, mong muốn níu kéo thời gian ấy thể hiện rõ nhất ở từ “đúng lúc” và câu “tội nghiệp vấn vương”. Những gì chúng ta thấy ở đây là một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang chạy từng bước, nhưng điều chúng ta đang chạy đua không phải là tận hưởng tối đa màu sắc cuộc sống như mong đợi ở mùa xuân, mà là tận hưởng ít nhất. – nó còn sống. Chỉ cần còn sống là đủ. Có bao nhiêu băn khoăn trong những câu thơ cũng như bao nhiêu khao khát. Tính nhân bản của thơ cũng ở đó: hãy sống hết mình mỗi ngày khi còn sống.

Niềm khao khát tình yêu và con người của nhà thơ được thể hiện trọn vẹn ở khổ thơ thứ ba, khi thế giới trở về với thực tại và hoàn toàn chìm đắm trong giấc mơ:

Tôi mơ thấy một người khách từ xa Nhìn xa áo trắng quá không thấy.

Từ “ước mơ” được đặt ở đầu còn em chới với, rồi tiếng gọi “xa vắng” đầy lo âu mang đến sự bơ vơ, hụt hẫng và để lại bao xót xa. Hình ảnh của vật thể lại hiện ra, như rời xa cánh tay cơ hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm tới. Khoác lên mình chiếc áo trắng vô song, cô gái trinh nguyên cả đời ngưỡng mộ nay trở nên mê muội, khó giữ. Mọi thứ có vẻ mờ hơn :

Ở đây có sương mù, có sương mù

Không gian mờ ảo, lạnh lẽo, mờ ảo trong sương, bí ẩn trong hư ảo. Nó lấn át ý thức và tiềm thức và làm tê liệt con người. Nghe câu hỏi cuối cùng đầy băn khoăn: “Biết rằng tình ai giàu?”, ta chợt nhận ra rằng nhà thơ đã chờ đợi điều đó, khao khát điều đó, đó là tình yêu trên đời, tình yêu. Cuộc đời nhà thơ vốn dĩ bất hạnh, cuối đời chỉ mong tìm lại chính tâm hồn mình. Hanmotu của chúng ta không “dị” như nhiều người vẫn nói. Anh có trái tim và tình cảm rất con người, mà có lẽ nhiều năm sau, vẫn sẽ có nhiều người nhận ra anh.

Bài thơ này như một khúc ca ngắn nói về tình yêu và niềm khao khát, đối diện với khu vườn, đối diện với một mảnh đời. Nét độc đáo của thơ còn nằm ở chính sáng tạo nghệ thuật của Han Meiketu. Với những hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng, ​​những câu hỏi tu từ tự sự, cách viết cách điệu, hiện thực hư ảo, ngôi làng này xứng đáng là một vần thơ. Những từ đẹp nhất và tinh khiết nhất.

“Trong tương lai, những thứ tầm thường sẽ biến mất, và phần còn lại sẽ là thời gian của Han Ketu.” Những lời trân trọng gửi đến Han của người bạn thơ Lan Weien đại diện cho cuộc sống mà Han để lại. Luôn luôn như thế này…

Phân tích thơ thôn này vi đà – mẫu 21

Bài thơ “Làng Này” là tác phẩm được Hàn Kết Đồ viết bằng cả trái tim và tâm hồn. Bài thơ này thể hiện nỗi nhớ quê hương xứ Huế của tác giả, nơi ông đã từng công tác.

han mặc tử (1912 – 1940) quê ở Bình Định nhưng học và làm việc tại Huế. Với anh, Huế là quê hương thứ hai, cũng là nơi để lại cho anh nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua việc phân tích bài thơ “Làng Vida” giúp ta hình dung được cảnh vật và con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là lời ngọt ngào mà chân thành của cô gái nói với chàng trai: “Sao anh không về quê chơi?” Làng Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm gần thành phố Huế thơ mộng. Làng Ngụy hay còn gọi là làng Vệ Đà, tác giả đã đề cập rằng đây là một ngôi làng yên tĩnh và xinh đẹp.

Đây cũng là nơi tác giả làm việc và học tập. Phải chăng đây là lời thủ thỉ nhắc nhở của cô gái với chàng trai, chúng ta hãy về làng Vida chơi nhé, vì ở đó có nhiều cảnh đẹp và huyền bí, đã lâu rồi chàng trai không đến đó. Khi tác giả miêu tả rõ ràng từng bức tranh đơn giản nhất, khung cảnh nơi đây đẹp đến ngỡ ngàng:

“Nhìn nắng vàng mới rọi vườn nhà ai xanh như lá tre”

Cảnh ở đây có hai màu chủ đạo là xanh và nắng vàng. Cảnh vật nơi đây có những hàng trầu cao vút, xanh mướt. Hình ảnh những cây cau mọc thành hàng, đến mùa ra hoa thật đẹp. Hoa trầu đẹp và thơm, đó là lý do tại sao ở Huế không có cây trầu nào. Nếu bạn đã từng đến Huế, bạn sẽ có dịp cảm nhận được những rừng trầu tuyệt đẹp của người dân nơi đây.

Ở Huế, bạn cũng sẽ thấy một bãi cỏ rộng với những cây trầu bà. Không gian tràn ngập sắc xanh, điểm xuyết bởi ánh nắng vàng khiến không gian trở nên thơ mộng. Vườn nhà được tác giả cho biết: từ “ướt” diễn tả sự tươi tốt, màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương pha lê còn đọng trên cây cỏ, ánh nắng nhẹ nhàng chiếu vào tạo thành những viên ngọc “xanh như ngọc” mà tác giả miêu tả.

Thước so sánh được sử dụng ở đây khiến người đọc liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một bức tranh nhiều màu sắc do tác giả vẽ nên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai, giọng thơ trở nên trầm lắng, xen lẫn một chút buồn man mác:

“Gió theo gió, mây theo mây, nước sầu, hoa ngô lay thuyền, ai cứu được trăng sáng đêm nay?”

Hai thứ gió và mây khi nhắc đến luôn khiến người ta liên tưởng đến tình yêu. Mây và gió vẫn không thể tách rời, tượng trưng cho sự khăng khít của vợ chồng. Nhưng ở đây, tác giả chỉ ra khoảng cách, khoảng cách giữa mây gió ngược chiều, mỗi vật đều hướng về cùng một hướng. Phải chăng đây là lời nhắn nhủ của nhà thơ với cô gái vàng? Hàn Motu vào Sài Gòn viết báo, giúp cha làm việc, lâu ngày hai người xa cách.

Đoạn hai của bài thơ là tả cuộc sống Nhịp sống chậm rãi, êm đềm của người Huế như tả dòng nước chảy chầm chậm. Những bông hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng trong gió.

Câu tiếp theo là một phép gợi nhớ, khiến người đọc dễ liên tưởng đến trăng và thuyền. Trăng soi bóng thuyền, hai bức tranh trữ tình như nước. Liệu đêm nay con thuyền có chở trăng về kịp hay lỡ làng? Đây là điều mà tác giả đang thầm nhủ, liệu có thể yêu lần nữa, hay cả hai sẽ mất nhau mãi mãi?

Đoạn cuối là lời tâm sự của tác giả, đồng thời cũng là suy nghĩ của tác giả về cô gái ấy:

“Tôi mơ thấy khách phương xa, khách phương xa áo trắng nhìn không thấy Nơi đây sương mù biết ai tình ai hơn?”

Người đọc ấn tượng bởi câu đầu của khổ thơ cuối, từ khách đường được lặp lại gợi lên một khoảng cách xa hơn. Áo cô gái trắng đến nỗi tôi không thể nhận ra, vì cô gái quá đẹp đến nỗi tôi không thể nhận ra người con gái mà tôi đã yêu. Sương khói dày đặc làm mờ hình ảnh một người Tác giả tự hỏi không biết nàng có còn yêu mình và có tình cảm mãnh liệt với mình không? Câu cuối là điều tác giả muốn hỏi cô gái.

Qua phân tích bài thơ “Làng này”, chúng ta có thể biết rằng đó là bài thơ hay nhất của Han Mektu trước khi ông qua đời vì bệnh phong. Qua bài thơ này, ta có thể hình dung ra vẻ đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế, một vùng đất xinh đẹp đã từng là cố đô của nước ta. Bài thơ còn miêu tả tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người con gái Huế thật phong phú và ngọt ngào biết bao!

Phân tích thơ Đây là làng Weida-Bản mẫu 22

Miketu Han là một nhà thơ đau khổ, nhưng ông là một trong những nhà thơ sáng tạo nhất trong Phong trào Thơ Mới. Ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm quý như: “Cô gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa trăng”… Độc đáo và xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tập trích “Thơ điên”. Đoạn thơ này là một bức tranh quê đẹp và là giọng nói yêu đời, yêu người:

“Sao em không về làng chơi?…ai biết tình ai đậm đà”

Đây là làng vi đà rục trong tập thơ Điên xuất bản năm 1940. Theo nhà thơ Quách Tấn, bạn của Hàn Mặc Tử, bài thơ lấy cảm hứng từ một tấm bưu ảnh do một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc viết. quyên tặng. Đây là một tấm bưu thiếp mô tả Huế với những dòng sông, những con thuyền, những bến đỗ trên mặt trăng hay bình minh. Khi đó, Han Motu đang điều trị bệnh phong ở Quiren. Sau khi nhận được bưu ảnh và lời chúc của các cô gái Huế, anh xúc động viết bài thơ này.

Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ cảnh vật và người dân làng vĩ đại. Bức tranh cuộn đẹp nên thơ và kỉ niệm sâu sắc của tình người:

Nắng đầu tiên vào vườn, ai xanh như lá trúc che chữ, sao không về làng ngắm bình minh

Có lẽ ai đã đọc bài thơ này cũng sẽ bị thu hút bởi sự trăn trở ở câu đầu tiên vừa như hờn dỗi vừa như buộc tội tình yêu. Câu hỏi ấy là hóa thân của nhà thơ, và nhà thơ là cô gái Huế. Một lời nói, một câu hỏi nhưng chan chứa yêu thương. Sao lâu rồi tôi không về miền quê thơ mộng bên dòng sông Hương, rong chơi với người con gái tôi yêu? Nhà thơ đã dùng từ “chơi” thay cho từ “thăm”.

Nếu dùng từ “phỏng vấn” thì cấu tứ của bài thơ không thay đổi nhưng lại trở nên sáo rỗng, còn từ “chơi” gợi sự gần gũi, thân thiết, tình cảm. Trong những câu thơ, nhà thơ bộc lộ cho người đọc thấy tình cảm của mình dành cho Shunnv, liệu Shunnv có phải là người yêu hay chính cô gái coi nhà thơ như người bạn tâm giao, tri kỷ của mình.

Mặt khác, sắc thái tu từ của khổ thơ đầu còn là sự thắc mắc, tự trách: Huế đẹp thế sao em không về? Đây là một câu hỏi nhức nhối và đau đớn, bởi việc trở lại Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh tật. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy lại là thứ gợi lên cả niềm khao khát, hoài niệm. Không thể quay lại, nhà thơ hành hương trong lòng. Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh làng quê trong ánh mắt háo hức:

Nhìn mặt trời kìa, nắng mới rọi vườn ai xanh mượt như lá tre che kín mặt

Phong cảnh nông thôn có thể được đánh giá cao từ xa và gần. Nhà thơ đã nhìn thấy “mặt trời chói chang và mặt trời vừa mọc” từ xa. Những câu thơ với phép láy “nắng”, nhịp 4/3 gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng. Cảnh này được hiện lên sinh động trước hết là vẻ đẹp của “miếng trầu tỏa nắng”. Trầu bà là cây to nên đón được tia nắng đầu tiên của ngày mới.

Không gian làng quê vì thế được nâng cao, thoáng đãng và rộng rãi. Đặc biệt sau một đêm tắm sương, những giàn trầu càng xanh tươi hơn dưới nắng. Từ “bình minh” gợi cho ta thấy đó là ánh nắng ban mai rực rỡ, trong trẻo. Bài thơ miêu tả một hàng trầu cau rực rỡ đứng thẳng đón những tia nắng đầu tiên của buổi sớm mai.

Ánh nắng trong lành và tinh khiết chiếu sáng không gian rộng lớn và khoáng đạt. Nhắc đến Vân Thôn, nhà thơ nghĩ ngay đến hình ảnh hàng trầu đầu ngõ. Bởi cây trầu là hình ảnh quen thuộc với mỗi người dân làng đại. Hình ảnh tưởng chừng như giản dị, bình dị này lại có sức hấp dẫn và sức truyền cảm lớn lao, có ý nghĩa sâu sắc trong lòng nhà thơ.

Nhắc đến trầu còn là nhắc đến một loại cây rất quen thuộc với làng quê Việt Nam, tục ăn trầu đã có từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ quê, một tâm hồn quê, cũng đã ghim tình yêu giản dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền của hình ảnh thân quen:

“Nhà em có hàng trầu, nhà em có cây trầu”

Nhà thơ Trần đăng khoa viết trong bài thơ “hoa lu”:

“Con đường cỏ lơ mơ, nắng, mái tranh, vài cây trầu mộc mạc chơi vơi, thả hồn quê lên trời”

Nhìn cận cảnh, thôn Vị hiện lên tràn đầy sức sống với những khu vườn tuyệt đẹp “xanh như ngọc”. “Bài thơ hay là bài thơ giàu sức gợi” (kính đểu). Thật vậy, bài thơ gợi lên một cánh đồng xanh trong thiên nhiên, cây cối xanh tươi làm cho người đọc cảm nhận được một sức sống căng tràn, dịu dàng.

Tác giả sử dụng màu xanh ngọc bích như ngọc bích để thể hiện sức sống và vẻ đẹp của làng quê, một màu cao quý, trong vắt và trong trẻo như pha lê. Nếu không có tình yêu với mảnh đất và con người vĩ đại này, có lẽ các nhà thơ Hàn Quốc đã không gieo được những vần thơ trong trẻo như vậy.

“Khu vườn của ai”? Không biết nhưng mơ hồ, đó là khu vườn của các cô gái Huế. “Smooth” là một tính từ khác với “smooth” bởi vì “smooth” chỉ sự mượt mà, trong khi “smooth” gợi lên sự tươi sáng, tươi tắn của cảnh vật. xuan dieu đã viết:

“Qua lá thu trút bầu trời ngọc, đến xứ sở của âm thanh huyền thoại”

Thủ pháp nghệ thuật “xanh như ngọc”. Màu xanh ngọc có nghĩa là màu xanh trong, màu xanh gợi nhớ đến ánh sáng, không chói chang mà dịu dàng, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc Huế này gắn liền với nền trời. Câu thơ sử dụng “vườn ai mềm quá” như lời ngợi ca, thán phục, khen ngợi và thầm cảm ơn chủ nhân đã tô điểm cho khu vườn thêm đẹp.

Khung cảnh trong làng cũng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện của những “lá tre che mặt”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của tre – một loại tre được trồng trước ngõ. Trong tâm trí nhà thơ, gương mặt chữ điền lấp lánh chợt hiện ra sau sợi tre.

Lá tre thanh mảnh, nét chữ vuông vức. Cả hai tạo nên vẻ đẹp hài hòa của con người và cảnh vật, để người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp yêu kiều của người phụ nữ Huế mà còn thấy được vẻ đẹp tinh tế, duyên dáng, e ấp mà thiếu nữ nào có được. Nhà thơ Bích Khê cũng viết về thôn Vĩ:

“Làng đại, lũy tre làng đẹp, tre chẳng lo say”

Bức tranh viết trên tre của Han Mike không chỉ là “lá che mặt” mà còn:

“Thì thầm ai ngồi dưới lũy tre cũng nghe ý nghĩa hồn nhiên”

Có một sự gắn bó cảm động giữa thiên nhiên và con người đã tạo nên những xúc cảm mạnh mẽ trong lòng nhà thơ. Nhà thơ ghi lại cái hồn của tạo vật bằng một cái gì đặc biệt, lắng đọng trong nỗi nhớ da diết, hoài niệm. Bằng cách miêu tả vẻ đẹp của làng quê, Hàn Mai Tử đã thể hiện tình cảm sâu sắc của mình đối với cảnh vật và con người xứ Huế. Cả hai đều chứa đựng một niềm tiếc nuối, một niềm khao khát được trở lại làng quê yêu thương.

Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ ngắm cảnh với niềm lạc quan, yêu đời thì ở khổ thơ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ chuyển dần khi nỗi niềm day dứt chia ly hiện lên rõ nét. Từng chữ một:

<3

Núi Tương Giang mang vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, sông Tương Hà luôn chảy chậm rãi, uể oải – đó là “bản tình ca chậm dành riêng cho Huế” (Cung Ngọc Bích). Hai bên bờ sông là những bãi ngô, đồng hoa khẽ đung đưa. Tuy nhiên, trong mắt Han Ketu, khung cảnh này dường như tách biệt “Nước buồn của hoa ngô”. Phép nhân hoá làm cho dòng sông như mang theo nỗi niềm khôn nguôi của nhà thơ.

Đó là khi cảm xúc bị thế giới bên ngoài tác động. Nỗi buồn của nhà thơ dường như bao trùm lên cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa ngô đồng… Gió và mây là hai sự vật khác nhau, luôn đồng hành với nhau như thuyền và nước, nhưng trong thơ, gió và mây lại tách biệt. Gió rơi vào gió, mây rơi vào mây “Gió theo gió, mây theo mây”. Nhìn xuống dòng sông, nhà thơ thấy dòng sông trở nên “buồn” và những bông ngô đồng chỉ “rung rinh” – một chuyển động rất nhỏ khiến bức tranh buồn hiu quạnh. Chữ “ju” trong thơ Hàn Kết Đồ như câu ca dao bay về đất:

Ai sẽ trồng khóm, gió lay hoa sậy để lại cho tôi buồn

Sông nước xứ Huế nhuốm màu hư ảo. Từ gió và mây đến nước và bông ngô bên sông, cảnh vật bao trùm một nỗi buồn. Làm tổn thương trực giác, làm tổn thương trái tim mềm yếu. Giữa gió và mây cũng có sự khác biệt, và quan niệm nghệ thuật về dòng sông chảy trong lòng tôi. Đằng sau những khung cảnh ấy là tâm trạng của một con người, trĩu nặng nỗi buồn chia ly và tình yêu đơn phương vô vọng. Pan Xiaoshun

Hai câu tiếp theo, nhà thơ đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là sông Tương Hà, nhưng màu thơ mộng không còn trong veo, xanh biếc của Vida mà trước mắt độc giả là một không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền đã thành thuyền trăng, sông đã thành sông trăng, và bến tàu đã trở thành một bến tàu trăng.

Xưa nay đã có thuyền trăng, bến trăng, nay còn sông Trăng nguyên thủy do hồn thơ Hàn Mc Tử tạo nên. Đọc đoạn thơ này, người đọc như được thả trôi vào cõi mộng, như được sống trong nỗi nhớ mong, khát khao của nhà thơ. Đây không phải là lần đầu tiên Hàn Mộc Đồ viết về trăng, nhưng trong thế giới thơ của Hàn Mộc Đồ, trăng là người bạn, người tình không thể thiếu trong tâm hồn nhà thơ:

“Trăng nằm trên cành liễu đợi gió đông về” “Trời đầy trăng, anh với em cũng là trăng”

Cỏ khô:

“Gió thổi ánh sáng vào bãi trăng”, “Ai mua trăng tôi bán cho trăng, người nằm lặng lẽ trên cành liễu có người mua trăng tôi bán trăng vô tình ” và lời thề”

Thơ Hàn Mạch Đồ ít nhiều nhuốm màu tượng trưng của chủ nghĩa siêu thực phương Tây nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, chẳng hạn như câu về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền tình” là thuyền của những cô gái Huế, là thuyền chở vầng trăng mà thi sĩ mơ ước, là tình yêu mà Hàn Mị Đồ đang mong chờ? “Đêm nay” là đêm nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi cuộc đời nhà thơ đang chạy đua với thời gian.

“Đêm nay” là ranh giới giữa sự sống và cái chết. Chính vì vậy mà câu hỏi tu từ dồn dập: “Có kịp đưa trăng về kịp đêm nay không?”. Liệu con tàu đó có cập bến trước khi Hammett về cõi vĩnh hằng? Từ “kịp” vì thế chứa đựng những cảm xúc hoài niệm, tin tưởng, cũng như những xót xa, hoài nghi của con người. Pan Xiaoshun

“Đêm nay anh có thể đưa mặt trăng quay ngược thời gian không?” là một câu hỏi đan xen những day dứt, khao khát và sợ hãi. Nỗi lo lắng và hi vọng bấp bênh trong tâm trạng nhà thơ. Han Motu cảm thấy bất lực khi cảm thấy thời gian trôi qua. Chính vì vậy, người đọc càng hiểu rõ hơn sức hấp dẫn trong lời mời gọi ở khổ thơ đầu, đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ trước cái chết cận kề.

Dù sống trong mộng nhưng nhà thơ không mất hi vọng mà còn cháy bỏng hy vọng:

“Giấc mơ từ phương xa bay về, áo trắng nhìn không thấy nơi này, sương mờ mịt, biết ai thương ai hơn?”

Tiểu đoạn 4/3 và điệp khúc “Người lữ khách phương xa” được lặp lại 2 lần thể hiện sự khắc khoải chờ đợi và khát khao mãnh liệt. Từ “mộng” ở đầu câu thể hiện rõ sự mong đợi của nhà thơ. “Mộng” không phải là “vọng”, bởi mộng là điều không nên, bởi sống trong mộng có lẽ sẽ bớt cô đơn. “Lữ khách” chắc là một cô gái Huế, khách phương xa mặc áo trắng.

Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng thuần khiết của người con gái Huế—đặc biệt là Hoàng Cúc, cô từng là nữ sinh trường Đồng Khánh. Trong ý nghĩa đa nghĩa của bài thơ, màu trắng còn là màu của tình yêu đơn phương, trong trắng, màu trắng ở đây lạ thường nên nó trở thành màu của ảo ảnh, bởi nhìn vào ảo ảnh, hình bóng người đẹp trở nên mờ ảo, hư ảo. .

“Nơi đây sương mù.” “Nơi đây” – nơi nhà thơ tĩnh tâm – Hàn Kết Đồ luôn cho rằng đó là nơi giam cầm trong cung. “Đây” cách xa “ấy”, nhưng đến đây dù chỉ một lần là điều không tưởng. Vì vậy, thơ vừa thực vừa mộng, ký ức cứ chìm vào trong sắc – sương ký ức hòa lẫn với vẻ đẹp của mộng. Hình bóng người đẹp ấy đã bao năm điên đảo trong mộng thơ:

“Trời ơi làm sao mà không đói, trăng gió có sẵn, ăn làm sao mà giết người trong mộng, trả thù cho cái mạng đã mất trong làng”

Câu hỏi cuối khổ thơ gióng lên những hoài nghi, khắc khoải về tình yêu vô vọng: “Biết rằng tình ai có dạt dào?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu nghiêm túc. Nhà thơ day dứt vì nhớ thương, vì lòng đang rơi vào trống vắng. Đây là Pan Xiaoshun. Câu hỏi này như một tiếng kêu đau đớn, mang nỗi buồn vô vọng, u uất của Han Mektu – một trái tim tan nát, bơ vơ trong phức tạp của sự chia ly, và chỉ biết yêu đời một mình.

Đoạn thơ sử dụng nhiều biện pháp tu từ như điệp ngữ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ, xuyên suốt toàn bài thơ là nghệ thuật liên tưởng và câu hỏi tu từ. Hàn Kết mở ra trước mắt ta một khung cảnh thơ mộng, sinh động, trong đó ẩn chứa nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau cô đơn, nỗi chán chường thế sự, nỗi đau cuộc đời ngắn ngủi của mình.

Nhưng anh vẫn sống một cách sống động trong nỗi đau của thể xác và tinh thần. Điều đó chứng tỏ ông không hề buông mình xuống dòng sông số phận mà đã nỗ lực vượt qua để khi từ giã cõi đời này không phải hối tiếc. Bao năm trôi qua, tình yêu của Hàn Kết vẫn tươi mới, nóng bỏng và day dứt trong lòng người đọc. “Tình trong mộng của kẻ cùng khổ có một sức bay lạ lùng” nhưng nó bình dị, trong sáng và đẹp đẽ như một ngôi làng lớn.

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nói về mối tình đơn phương tuyệt vọng của nhà thơ Hàn Mặc Tử nhưng cũng rất yêu đời. Nói đến Huế, ta không thể quên ngôi làng trong bài thơ Vida, và nói đến Hàn Mã Tử, ta không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là vẻ đẹp của thôn quê trong thi ca để đời của ông. Sắc đẹp, thơ sắc, đoạn tình mượn tứ thơ thay sắc của Khưu Đôn, nhà thơ Hàn Kết Đồ:

“Chào huệ, anh đến đây một lần để cho em nhớ trong mơ em rất thật và tỏa nắng, xin đừng nhầm anh với Cổ Đạo”

Phân tích thơ Đây là làng Weida-Bản mẫu 23

Đây là thôn Vĩ Dạ do Hàn Mặc Tử sáng tác trong trại phong Tuy Hòa năm 1938, khi nhà thơ chỉ còn một thời gian ngắn nữa là vĩnh biệt cõi đời. Nỗi đau về thể xác, nỗi cô đơn chỉ có vầng trăng, tâm hồn và hơi thở của tạo hóa đã khiến nhà thơ điên cuồng đi tìm phần đẹp nhất của cuộc đời. Đúng lúc tình yêu thương con người như giọt nước tràn ly, tình yêu cuộc sống bị cơn bạo bệnh bóp chết, tình cờ anh nhận được bức ảnh Đêm trăng Huế và lá thư hỏi thăm của người con gái năm xưa, người con gái anh yêu. -Cúc hoàng thảo. Những điều đó đã gợi lại cảm xúc xưa cũ khiến nhà thơ viết về làng quê này.

Bài thơ chỉ có ba khổ nhưng chứa đựng quá nhiều kỉ niệm, nỗi nhớ, niềm đau và sự tuyệt vọng của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, Hàn Mộng Đồ dẫn người đọc vào một bức tranh tuyệt đẹp về xứ Huế mộng mơ – nơi chứa đầy những kỉ niệm đẹp nhất của nhà thơ về tuổi trẻ, về mối tình đơn phương. .

Vượt qua nỗi đau của thực tại, trong con mắt của những người yêu nhau nhớ quê hương, nhà thơ Hàn gửi gắm một màu sắc trong trẻo, thanh khiết. Tất cả điều này được khắc họa qua hình ảnh những khu vườn nhỏ được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của những đứa trẻ tuyệt vời, pha trộn giữa ánh sáng ban mai, màu sắc và sự trong trẻo. Vẽ nên một bức tranh đầy sức sống, phong phú không nơi nào có được, nhà thơ đã viết:

“Sao không về thôn chơi? Nhìn vườn đầy Tín Dương, người xanh như ngọc, lá trúc che mặt”

Tác giả dùng một câu tự vấn rất thú vị làm điểm tựa cho bài thơ:

“Sao em không về làng chơi?” Câu hỏi này nghe như một lời mời, một lời chào thăm Đácun, nhưng cũng được hiểu một cách dịu dàng như một lời trách móc người thân không về chung vui. cảnh đẹp và thanh bình của Dacun, chờ đợi mãi. Đó là lời tỏ tình của cô gái mà nhà thơ từng yêu, hay chính tác giả đã “nhân bản” mình?

Dù hiểu theo cách nào thì bài thơ này nói về cảm xúc của nhà thơ khi trở về miền đất kí ức. Tác giả Hàn Kết đã chọn không gian buổi sáng đẹp nhất trong ngày để tái hiện vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây. Khu vườn được tưới bởi ánh mặt trời mỗi sáng. Lần xuất hiện thứ hai của hình ảnh “nắng” trong câu thơ giúp nhà thơ miêu tả thứ ánh sáng hiếm hoi dường như lan tỏa khắp khu vườn theo nhịp thời gian.

Ánh nắng trong lành từ giàn trầu trải đều khắp vườn, sau một đêm ngon giấc lại rắc lên khắp những thân cây trầu trong vườn. Đó không phải là “nắng chiều” trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, cũng không phải là “nắng khói” trong chính mùa xuân chín của Hàn Mạt, mà là thứ nắng trong lành, trong trẻo, tinh khiết.

Trầu bà, loài cây cao nhất, dường như là thước đo của tự nhiên để tăng cường độ ánh sáng mặt trời. Nắng hắt sương đọng trên những thân cây, trên những chiếc lá trầu… biến khu vườn thành một viên ngọc lớn lấp lánh. Từ “Chàng” diễn tả rất chính xác trạng thái đầy sức sống của khu vườn, vừa thể hiện sự ngỡ ngàng của nhà thơ trước vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế, vừa thể hiện sự nâng niu của bàn tay nhà thơ đối với xứ Huế. Vani của người đàn ông tuyệt vời.

Và câu thơ ngay bên dưới “Lá trúc che mặt” đã giúp nhà thơ Hàn Quốc bộc lộ trọn vẹn cảm xúc chân thực của mình. Nếu trong thơ xưa, thiên nhiên là hình ảnh trung tâm của bức tranh, thì trong mắt các nhà thơ mới, bức tranh thiên nhiên xứ Huế tuyệt đẹp này thực sự là cái nền để các nhà thơ bộc lộ cảm xúc và trân trọng vẻ đẹp của con người. Đẹp không thể tả, chỉ tô điểm bằng khuôn mặt vuông vức, “đầy đặn” và hình ảnh hơi e thẹn, “lấp ló” cũng đủ khiến người đọc cảm nhận được sự mềm mại, dịu dàng của người con gái. Vùng đất của những giấc mơ sex, thơ sex.

Bước sang khổ thơ thứ hai, điệp khúc về tình yêu thiên nhiên của con người xứ Huế tiếp tục được tái hiện nhưng giọng điệu tâm tình của nhà thơ đã biến thành cảnh sắc Tương Giang trong một đêm trăng. Vì Vader nằm bên bờ sông Hương nên mỗi khi nghĩ đến vùng đất này, Hen Mektu không thể cưỡng lại vẻ đẹp của dòng sông từng là nàng thơ của hoàng đế trong “Tên Dòng Sông”. bức tường sau này. Tuy nhiên, không còn là khung cảnh thiên nhiên trong sáng, rực rỡ như ở khổ thơ đầu mà gửi gắm cảm xúc của nhà thơ ở hiện tại và kí ức của chính mình:

“Gió đi theo gió, mây là mây, nước chảy, sầu là hoa ngô đồng”

Không gian tươi đẹp tràn đầy sức sống đã biến mất, khổ thơ thứ hai ám ảnh bởi nỗi buồn bao trùm cảnh vật. Gió và mây là hai hình ảnh của sóng đôi “gió thổi mây mở”, nay đường chia đôi. Vẻ đẹp của cảnh tượng Tương Giang vẫn thế, nhưng lần này dường như có thêm một quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Trên nền của cả bức tranh sông nước chỉ có những bông ngô đồng khẽ đung đưa. Nhưng không biết có phải vì nỗi buồn mơ hồ của nhà thơ khi nhớ lại cảnh xưa quá lớn, hay nỗi đau thể xác thực sự quá lớn khiến ông không kìm chế được cảm xúc, biến sông Huế thật thành sông thật. , bí ẩn:

“Thuyền ai đậu bến sông Trăng, có thể gửi trăng ngược thời gian”

Vầng trăng xuất hiện trong thơ Hàn Kết Đồ không phải là lần đầu tiên, dẫu có máu mủ ruột thịt, trăng cũng là hình ảnh đồng hành giúp nhà thơ thoát khỏi nỗi đau của hiện thực. Nhưng ở đây, không phải là “vầng trăng trên cành liễu” hay “vầng trăng thẹn thùng sau nhành tùng”… mà là con thuyền chở trăng chở nỗi nhớ mong, khắc khoải của thi nhân trước linh cảm của sự chia xa.

Từ “kịp thời” và câu hỏi tu từ ở cuối đoạn 2 diễn tả rất chính xác cảm xúc, sự tiếc nuối, băn khoăn ấy. “Bạn có thể mang mặt trăng trở lại trong thời gian tối nay”?

“Đêm nay” là một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng dường như qua từ “đúng lúc” và dấu hỏi cuối câu, người yêu thơ cảm nhận được cái chết của cuộc chạy đua với thời gian trong lòng người Hàn.

Nhưng rất tiếc, đó không phải là cuộc chạy đua bay bổng để tận hưởng phần xanh tươi nhất của cuộc đời, như điều kỳ diệu của mùa xuân đã từng nói:

“Tôi muốn dập tắt nắng, nhưng màu sắc không phai” Tôi muốn được buộc vào gió, để hương thơm không bị phân tán.

Nhưng cái tôi tội nghiệp tranh giành với thời gian từng phút giây trong cõi trần gian của nhà thơ. Niềm khát khao, yêu đời và con người được nhà thơ tiếp tục, đạt đến cao trào ở khổ ba, người và cảnh đắm say trong mộng.

“Em nằm mơ thấy khách xa, áo em trắng nhìn khách xa”

Chữ “mộng” đặt ở đầu bài thơ bên cạnh chữ “lữ khách phương xa” giống như tiếng gọi “khách” khẩn thiết của nhà thơ. Sự xuất hiện của hình ảnh “khách đường xa” đi đôi với “vô hình” khiến người đọc có cảm giác như đang ở trong cảnh mà những cuộc tiếp đãi hàng ngày đang ngày càng xa dần khỏi vòng tay của Hân. Màu trắng của nắng, hay tà áo trắng của cô gái Huế, mờ trong sương, xa nhà thơ:

“Nơi đây sương khói, biết ai thương ai hơn?”

Bạn hay tôi, hay cả hai – Hanmotu’s Affair? Không ai có thể xác nhận điều này. Nhưng chỉ cần bạn đọc bài thơ này và hiểu được cuộc sống hiện tại ở Hàn Quốc, bạn sẽ hiểu được nỗi khao khát cuộc sống và tình yêu trần thế của nhà thơ là như thế nào. Nhưng càng khao khát, càng tuyệt vọng. Dù muốn gặp lại bạn cũ nhưng nỗi nhớ của nhà thơ chỉ là “ai có tình sâu nặng”.

Có bao giờ cô gái cũ cảm nhận được tình yêu của anh? Liệu cô gái có rung động trước trái tim của chàng thi sĩ Hàn Quốc đến cuối đời? Cảm nhận là thế, nhưng kết thúc vẫn là nỗi cô đơn, tuyệt vọng của nhà thơ khi không được hồi đáp. Rõ ràng là lời bài hát không gay gắt như thế này:

“Trời ơi làm sao mà không đói, gió trăng sao có mà ăn, làm sao mà giết người trong mộng, để báo đáp số mệnh nghiệt ngã”

khép lại đây thôn Vĩ Dạ—một cuộn tranh đẹp về con người và thiên nhiên xứ Huế, liên tưởng chạm khắc và hoa lá, trí tưởng tượng thú vị, tình yêu và nỗi lòng xao xuyến của Hàn Mặc Tử, cảm giác ta còn yêu thi sĩ, yêu đời trần thế . Dù đã ra đi mãi mãi, nhưng điều chắc chắn là ngôi làng Vida này – người con ruột thịt đã sinh ra trong giờ phút đau thương nhất, thể xác và tinh thần của nhà thơ sẽ mãi mãi ở lại đây, cùng các thế hệ mai sau.

Niềm khao khát được sống, được yêu của nhà thơ là một thứ gia vị đặc biệt giúp người đọc thêm yêu thơ, nuôi dưỡng lòng yêu quê hương, yêu đời hơn.

Phân tích thơ Đây là thôn Vĩ Dạ-Văn mẫu 24

Thơ Làng Vida là một trong những kiệt tác để lại cho thế giới của nhà thơ Han Mektu. Đây là những bài thơ ngọt ngào và lâng lâng. Trước khi viết bài thơ này, nhà thơ đang mắc bệnh phong, nhưng trong lòng ông vẫn canh cánh trong lòng nỗi nhớ da diết và những kỉ niệm đau buồn về quê hương lớn lao mà nhà thơ đã từng một thời son sắc.

Huế là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Maiq Thụ khi còn là nhân viên trước khi vào Sài Gòn viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong ngòi bút của thi sĩ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp không kém. Huế cũng là vùng đất có đặc điểm trồng cây trầu mà trong bài thơ của Han Mektu đã nhắc đến:

“Sao em không về làng chơi? Nhìn mặt trời đi, nắng mới lên”

Lời trách móc nhẹ nhàng, ai nhìn cũng đoán được đó là lời trách móc của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu này, sao mà nói trôi chảy thế, bực mình quá nửa! Cô gái trách chàng trai sao không về làng xem cây trầu mới mọc và được nắng “tưới”.

Cây trầu cao vút xanh um trông thật đẹp, nay rợp nắng vàng! Ôi, thật là một bức tranh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng tuyệt đẹp. Hơn nữa, đọc hai câu tiếp theo mà không khỏi thở dài thán phục nhan sắc:

“Vườn ai xanh tốt, lũy tre che mặt”

Nếu đã đến Huế, bạn đã từng thấy những khu vườn xinh đẹp với cỏ xanh và cây trầu. Người Huế bình dị lắm, chỉ cần họ gần gũi với cuộc sống thiên nhiên bình dị, trữ tình cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thơ mộng và đẹp biết bao nếu không có những tòa nhà chọc trời, cao tầng. Bước chân vào Huế, chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp xưa cũ.

Đường phố đông đúc người đi bộ và người đi xe đạp, không ồn ào hay vội vã. Cách miêu tả của tác giả: “Vườn ai xanh như ngọc”, là vẻ đẹp của từng loài cây cỏ được sương sớm kết tủa. Khoảnh khắc đó thật đẹp, và bây giờ càng đẹp hơn khi mặt trời chiếu sáng.

Phong cảnh vẫn tráng lệ hơn bao giờ hết. Diễn ra suôn sẻ, cây cỏ phát triển tốt mà xanh như ngọc. Trong số đó, sapphire đại diện cho màu xanh lam. Tác giả đã khéo léo kết nối màu xanh của cỏ với màu xanh của ngọc bích. Điều này thể hiện sự tinh tế, khôn khéo của nhà thơ Hàn Kết Đồ.

Con người xứ Huế thể hiện vẻ đẹp giản dị, hiền hòa qua câu thơ “Lá trúc che mặt mà lấp”. Khuôn mặt vuông là biểu cảm vuông vức, thể hiện sự hiền hòa, nhân hậu của người dân nơi đây. Ở vế thứ hai, tác giả khắc họa đặc biệt rõ nét nhịp sống chậm rãi, êm đềm của người dân xứ Huế:

“Gió theo gió, mây theo mây, nước buồn, hoa lay động”

Dòng nước chảy rất chậm, ngay cả những bông ngô “buồn bã” cũng trôi rất chậm. Câu thơ này cũng nhắc nhở chúng ta về khoảng cách giữa gió hướng này và gió hướng khác. Đây là cuộc chia ly tình yêu giữa chàng trai Hàn Quốc và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc, một đường thẳng song song sẽ không bao giờ có điểm chung – người con gái mà nhà thơ đã từng thương nhớ? .

Khi đọc câu thơ: “Thuyền ai trên sông Trăng, đêm nay có gửi trăng về kịp không?” khiến người đọc hình dung trên sông có một con thuyền nhỏ, có trăng sáng. Con tàu đi đến đâu cũng như chở theo vầng trăng. Con tàu sẽ mang mặt trăng quay ngược thời gian?

Đoạn cuối nói về tình cảm của tác giả Hàn Mật Đồ dành cho cô gái xứ Huế mà ông thầm thương trộm nhớ, được diễn tả cụ thể qua bốn câu cuối:

“Tôi mơ thấy khách phương xa, khách phương xa áo trắng nhìn không thấy Nơi đây sương mù biết ai tình ai hơn?”

Tác giả nằm mơ thấy một vị khách lạ đến, chính là cô gái mà tác giả đem lòng yêu mến. Chiếc áo trắng đến nỗi nhà thơ không còn nhận ra cô gái ấy nữa. Màu áo trắng cũng làm ta liên tưởng đến những tà áo trắng của những cô nữ sinh xứ Huế. Câu thơ người khách phương xa được lặp lại hai lần thể hiện sự sâu xa, xa cách giữa nhà thơ và những nhân vật mà tác giả nói đến.

Sương khói dày đặc đã làm mờ hình ảnh cô gái, khiến tác giả có cảm giác lạc lõng. Tác giả tự hỏi lòng mình: “Ai biết tình yêu của ai bền chặt?” Không biết người con gái ấy có còn nhớ, có còn yêu mình đến chết không? Đọc xong bài thơ này tôi thấy hơi chạnh lòng, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đã đơn phương trao cho một cô gái nhưng không được đáp lại.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 25

Han Motu là một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và biết ơn cuộc sống. Anh cũng là người đã từng yêu và cảm thấy tình yêu đó dang dở. Nhưng anh là một người lạc quan, hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp.

Bài thơ “Đây thôn Weida” là lời bộc bạch và tâm trạng của ông trước khung cảnh đồng nội tươi đẹp. , một thông điệp trữ tình trong tâm trạng nhớ nhung, khao khát.

Bài thơ có bảy chữ nhưng có tới sáu con số bằng nhau, thanh duy nhất dâng lên cuối câu như một nốt trầm khẩn khiến lời thơ nhẹ nhàng đầy tiếc nuối, ngân vang da diết. Trong mạch nguồn hoài niệm ấy, hình ảnh làng quê chợt hiện lên trong tâm trí nhà thơ:

<3

Ba dòng thơ của Hàn Mặc Tử tả cảnh thiên nhiên xứ Huế. Mỗi bài thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sinh động phác họa nên bức tranh quê đẹp sống động trong nỗi nhớ. Đầu tiên là vẻ đẹp trong sáng của buổi ban mai: nắng mới không phải là nắng chói chang bên bờ sông Bạch Hà mà là ánh nắng chói chang và trong trẻo của một ngày.

Chỉ tả mặt trời thôi nhưng gợi trong lòng người đọc bao liên tưởng đẹp. Từ “nắng” phác thảo một bức tranh nắng chiếu rọi vào không gian, vạn vật được rải khắp vườn từ trên xuống dưới, làng quê như khoác lên mình chiếc áo mới trang nhã. Tươi, tươi.

Ở câu thứ ba, khu vườn được tắm mình trong ánh nắng ban mai, như viên ngọc quý: “Vườn ai xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng kêu ngạc nhiên, không xanh mà xanh như ngọc. Đơn giản và thanh lịch tinh khiết. Từ láy “mướt” tác động mạnh vào giác quan người đọc, để lại ấn tượng về vẻ mượt mà, óng ả của khu vườn.

Nhưng tinh thần của bài thơ lại tập trung ở chữ “Ai” chỉ có một nét khiến cho tiền cảnh bỗng bị đẩy ra xa, hư ảo. Giọng nói mềm mại khiến hơi thở như chìm vào một ảo ảnh mờ nhạt. Và thật tự nhiên theo mạch cảm xúc, khi nhắc đến “ai”, nhà thơ nghĩ ngay đến nét phác của một người: “Lá tre che mặt phông”.

Hình ảnh cành trúc đã quá quen thuộc với những ai nhắc đến mảnh đất Cố đô này. Con người như hòa vào, như ẩn chứa trong thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo và duyên dáng. Đó là nét đẹp riêng của mảnh đất cố đô nhưng trong những tầng bậc cảm xúc ta lại thấy nỗi buồn thấm vào lòng người. Vẻ đẹp mơ hồ và mong manh đó, trong đoạn thứ hai của Yuntiantu, dòng sông:

“Gió theo gió, mây theo mây, nước sầu, hoa ngô lay thuyền, ai cứu được trăng sáng đêm nay?”

Hai câu đầu: Bức tranh mang những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió lồng lộng, mây lững lờ trôi, mặt nước phẳng lặng, bên sông có những bông ngô đồng khẽ đung đưa. Cách tả thực gợi lên tâm hồn xứ Huế: gió nhẹ, sông chảy, hàng cây khẽ rung. Nhưng nhìn kỹ, bạn sẽ thấy những đường nét sáng tạo rời rạc, một cuộc sống đổ nát, kiệt quệ và những giai điệu thơ mộng ảm đạm và xa xăm.

Tả cảnh thực hay cảnh đã được nghệ thuật chuyển hóa để diễn tả tâm trạng của nhà thơ. Ngược chiều gió gợi lên sự chia ly của cuộc đời và tình người, như nỗi đau cắt vào thân phận, chia ly của chủ đề trữ tình khi làm thơ. Hai câu kết bài cũng cho ta cảm tưởng về một quan niệm nghệ thuật giống nhau.

Cảnh đẹp trên sông vẫn còn mơ hồ hiện ra: Thuyền tình-Jangyue…. Dòng sông này như nhòe đi, không còn là dòng sông nước mà là dòng sông trăng, tràn ngập ánh trăng vàng, dòng suối chảy trong vũ trụ, làm nên không gian thơ mộng hư ảo.

Từ thông tục “ai” nghe xa xăm, còn thuyền trăng bên kia mong manh như ảo ảnh. Để rồi, câu “đêm nay đúng giờ” cũng đủ đưa nhà thơ lập tức trở về với thực tại và đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Chỉ ba chữ thôi đã gợi lên biết bao sự hồi hộp, mong đợi, hi vọng, lo lắng, vừa mong mỏi rồi lại chợt ngờ vực.

Dấu hiệu mong đợi rất mong manh nhưng rất đau đớn. Niềm khao khát vẻ đẹp của tình yêu và cuộc sống ở thế gian của nhà thơ không tránh khỏi những hoài nghi, lo lắng. Khổ thơ cuối giúp nhà thơ trân trọng hơn tiếng nói tha thiết tưởng như vô vọng ấy:

“Tôi mơ thấy khách phương xa, khách phương xa áo trắng nhìn không thấy Nơi đây sương mù biết ai tình ai hơn?”

Hình ảnh “lữ khách phương xa” đã xuất hiện trong thơ ca Hàn Quốc chưa? : Khách phương xa chín mùa xuân, khách phương xa hành trình là Hàn Kết đồ huyết mộng. “Khách” tự nó đã là tuyệt vời rồi, khách phương xa lại càng xa tầm với. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của ông, vì mối quan hệ giữa tâm tư nhà thơ và cuộc đời đã trở nên xa cách.

Nhà thơ cảm thấy mình chỉ bước đi trong tình yêu và hạnh phúc, nhưng không bao giờ nắm bắt được nó. Đó là lý do tại sao tất cả các hình bóng đều xa vời và không có thực: chiếc áo sơ mi của cô ấy quá trắng để có thể nhìn thấy được. Câu thơ ấm áp “Áo em trắng quá”, nhưng cũng buồn “Không thấy đâu”. Thiên thần trắng tinh đó luôn mất kiểm soát. Hai câu trong kết bài là sự giải thích: có một nguyên nhân rất khách quan: ở đây có sương mù.

Xưa xứ Huế đầy sương khói, nhưng còn một lý do chủ quan khác: trái tim bên trong chiếc áo trắng khác mờ mờ lộ ra một khoảng trống sương khói. Đó là sương mù của thời gian, hay là sương mù của mối tình mong manh chưa kịp kết, là sương mù treo trên một trái tim biết mình sẽ chết… đó là sương mù treo trên thi nhân đến nỗi không thể nhận ra . , nó là không thể để làm chủ.

Cuối phim, nỗi buồn và sự băn khoăn tự hỏi “Ai Biết Được Tình Yêu” có mạnh mẽ hay không còn đọng lại, nhưng nó đã phai nhạt từ lâu. Câu thơ này có nhiều cách hiểu, làm sao nhà thơ biết được tình người xứ Huế có đậm đà hay không? Người Huế có biết nhà thơ có tình cảm sâu đậm với nàng không?

Ngôi làng Vida này thu hút người đọc bằng vẻ đẹp của một bức tranh cổ trang tao nhã và quý phái. Nó gợi cái hồn của cố đô, nhưng không thể nói rằng bài thơ này chỉ tả cảnh. Bài thơ này làm ta yêu đời hơn.

************************

Bài thơ hay nhất “làng này thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, học sinh giỏi nhất lớp 11, được phân tích với 25 bài văn mẫu. Tôi hy vọng sẽ giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ, vẻ đẹp của trái tim thi nhân – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn đầy tình yêu, đã mở đầu cho những vần thơ, những tiếng reo của nghệ thuật. Trong cuộc đời của anh ấy.

Đăng bởi: thpt sóc trăng

Danh mục: Giáo dục

Nguồn: https://xettuyentrungcap.edu.vn
Danh mục: Hỏi Đáp

Related Articles

Back to top button